Vai Trò Của Khu, Cụm Công Nghiệp Đối Với Sự Phát Triển Kinh Tế Xã Hội


cao tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng chuyên ngành trong việc tạo ra các điều kiện tiên quyết cho việc thành lập một CCN.

Khái niệm của Rosenfeld phù hợp hơn với đặc tính của các CCN công nghệ cao. Các vấn đề như phổ biến công nghệ hoặc chia sẻ cơ sở hạ tầng chuyên ngành, là những yếu tố quan trọng đối với các ngành công nghiệp mà công nghệ đóng vai trò quan trọng; ngược lại, những yếu tố này có vai trò ít quan trọng đối với các ngành công nghiệp sản xuất truyền thống.

Theo Nghị định số 68/2017/NĐ-CP của Chính Phủ (2017) thì CCN được hiểu như sau: “CCN là nơi sản xuất, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được đầu tư xây dựng nhằm thu hút, di dời các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác vào đầu tư sản xuất kinh doanh”.

Từ các khái niệm, quy định ở trên luận án thống nhất khái niệm về CCN: CCN là một khu đất có quy mô diện tích không vượt quá 75 ha và không dưới 10 ha, là nơi di dời, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất hộ gia đình, cá nhân trong làng nghề nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, phát triển nghề, làng nghề ở địa phương.

Theo định nghĩa này thì CCN được hiểu là một KCN quy mô nhỏ. Trên thực tế, khái niệm KCN và CCN có liên quan đến nhau nhưng không hoàn toàn giống nhau. Cả hai đều là nơi tập trung sản xuất sản phẩm công nghiệp và/hoặc cung cấp dịch vụ công nghiệp. Khái niệm KCN đề cập tới địa điểm tập trung của các hoạt động kinh tế còn khái niệm CCN đề cập tới hiện tượng tập trung các hoạt động sản xuất, hoạt động kinh tế có sự tương đồng về sản phẩm và có sự liên kết với nhau. CCN có quy mô nhỏ hơn (thường dưới 50 ha), các chuẩn về cơ sở hạ tầng (CSHT) và xử l môi trường thấp hơn.

2.1.2. Đặc điểm khu, cụm công nghiệp

Mặc dù mỗi quốc gia khác nhau thì đều quy hoạch các KCCN với quy mô, địa điểm, phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút vốn đầu tư khác nhau nhưng nhìn chung các KCCN đều có chung những đặc điểm sau:


Một là, là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa l xác định. KCCN cũng là nơi tập trung các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vưc công nghiệp và dịch vụ có dự án đầu tư dài hạn (bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng). Với hạ tầng kỹ thuật được đầu tư đồng bộ và đặt tại vị trí thuận lợi về kết nối giao thông, KCCN là các trọng điểm thu hút đầu tư các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước để phát triển sản xuất công nghiệp của các địa phương. Ngoài ra, tại một số địa phương, KCCN được hình thành gắn với nguồn nguyên liệu của địa phương để phát huy tiềm năng thế mạnh tại chỗ và di dời các cơ sở công nghiệp ô nhiễm trong khu vực đông dân cư để đảm bảo công tác bảo vệ môi trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Hai là, là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ. KCCN được xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị doanh nghiệp dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Chính vì vậy các KCCN thường được quy hoạch ở những vị trí địa lý không có dân cư sinh sống và cũng thuận tiện cho giao thông đi lại.

Ba là, có hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, tạo thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động kinh doanh, như: đường xá, hệ thống điện nước, điện thoại. KCCN khi được xây dựng đã bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCCN như điện, nước, nhà xưởng… Khi doanh nghiệp đến đầu tư tại mỗi KCCN có thể thuê lại phần diện tích cần thiết mà doanh nghiệp cần để sản xuất kinh doanh mà không mất thời gian và chi phí cho việc xin giấy phép xây dựng công trình, chi phí lắp đặt hạ tầng,… đồng thời doanh nghiệp có thể giảm thời gian xây dựng mà vận hành ngay trên cơ sở hạ tầng sẵn có. Khi thuê lại phần diện tích tại đây, các doanh nghiệp chỉ cần bỏ ra khoản tiền vay theo năm vì vậy đòi hỏi vốn cho đầu tư ban đầu là thấp hơn rất nhiều so với việc đầu tư xây dựng mới hoàn toàn, từ đó tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, điều này là rất thuận lợi với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các KCCN. Nếu các KCCN nằm tại các vị trí thuận lợi, có điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi sẽ thu hút nhà đầu tư vào đầu tư nhiều hơn. Tuy nhiên,

Huy động vốn đầu tư cho khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 6


khi điều kiện không thuận lợi các nhà đầu tư đến khảo sát sẽ rất khó có thể kéo các nhà đầu tư quay trở lại đầu tư.

Về bản chất giữa KCN và CCN có nhiều đặc điểm khá tương đồng, tuy nhiên giữa chúng cũng có sự khác biệt, cụ thể:

Thứ nhất, về mục đích thành lập. Việc thành lập các KCN nhằm thu hút các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cả trong nước và ngoài nước với mọi cấp độ. Còn việc thành lập các CCN nhằm mục đích tạo ra mặt bằng sản xuất cho các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ chủ yếu trong nước với quy mô nhỏ hơn, đó là cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các làng nghề đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất di dời từ nội đô.

Thứ hai, về quy mô. Quy mô KCN thường lớn hơn quy mô CCN, cụ thể diện tích CCN thường ở mức trên dưới 50ha (cũng có thể gọi là CCN vừa và nhỏ) còn diện tích KCN thường lớn hơn 100ha. Sự khác nhau về quy mô này cũng chính là thế mạnh, lợi thế của CCN trong quá trình hình thành và phát triển.

Thứ ba, về tổ chức và đối tượng tham gia. Trong KCN chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ còn trong CCN chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quy mô nhỏ, các hộ gia đình sản xuất các mặt hàng truyền thống như mây tre đan, sơn mài, đồ gỗ.

Thứ tư, về cơ sở hạ tầng. Trên thực tế, cơ sở hạ tầng trong các KCN thường được trang bị tốt hơn cơ sở hạ tầng các CCN và thường được đặt ở các vị trí thuận lợi hơn như: gần các trục giao thông lớn, sân bay, cảng,...so với các CCN.

Bên cạnh những đặc điểm của các KCCN ảnh hưởng lớn đến việc thu hút vốn đầu tư, các yếu tố khác cũng tác động rất nhiều. Tuy nhiên, việc xây dựng các KCCN có nhiều thuận lợi hơn các khu vực khác khi thu hút vốn đầu tư, vì hạ tầng và các điều kiện cần thiết đã được đảm bảo, đồng thời giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu cho nhà đầu tư. Nếu nắm bắt được tốt những đặc điểm này, xây dựng các KCCN đáp ứng tốt yêu cầu sẽ giúp các KCCN có thể huy động vốn đầu tư rất lớn từ rất nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.


2.1.3. Vai trò của khu, cụm công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội

Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các KCCN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nhất là các nước đang phát triển thì việc hình thành các KCCN đã tạo ra được những cơ hội phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa rút ngắn bởi có thể kết hợp và học tập được những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ, về tổ chức và quản l doanh nghiệp, đồng thời tranh thủ được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển, cụ thể:

Một là, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển nền kinh tế. Các KCCN với đặc điểm là nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại và thu hút các nhà đầu tư cùng đầu tư trên một vùng không gian lãnh thổ do vậy đó là nơi tập trung và kết hợp sức mạnh nguồn vốn trong và ngoài nước. Với quy chế quản l thống nhất và các chính sách ưu đãi, các KCCN đã tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài; hơn nữa việc phát triển các KCCN cũng phù hợp với chiến lược kinh doanh của các tập đoàn, công ty đa quốc gia trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tranh thủ ưu đãi thuế quan từ phía nước chủ nhà, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận và khai thác thị trường mới ở các nước đang phát triển. Việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào KCCN bằng nhiều hình thức, đa dạng sẽ thu hút được một nguồn vốn lớn trong nước tham gia đầu tư vào các KCCN.

Hai là, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu, giảm chi ngoại tệ và góp phần tăng nguồn thu ngân sách. Sự phát triển các KCCN có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Hàng hóa sản xuất ra từ các KCCN chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số lượng hàng hóa xuất khẩu của địa phương và của cả nước. Khi các KCCN mới bắt đầu đi vào hoạt động, lúc này nguồn thu ngoại tệ của các KCCN chưa đảm bảo vì rất có thể các doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được để nhập khẩu công nghệ, dây chuyền, máy móc thiết bị… nhưng cái lợi thu được là nhập khẩu nhưng không làm suy giảm quỹ dự trữ quốc tế của đất nước. Khi các doanh nghiệp đi vào sản xuất ổn định, có hiệu quả thì lúc đó nguồn thu ngoại tệ bắt đầu tăng lên nhờ hoạt động xuất khẩu của


các doanh nghiệp KCCN. Ngoài ra, hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua việc cung ứng nguyên vật liệu của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp chế xuất hoạt động trong KCCN và việc một số doanh nghiệp chế xuất tổ chức gia công một số chi tiết, phụ tùng, một số công đoạn tại các doanh nghiệp trong nước góp phần vào quá trình nội địa hóa trong cơ cấu giá trị sản phẩm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, các KCCN cũng đóng góp đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương và đóng góp chung cho nguồn thu của quốc gia

Ba là, tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản l hiện đại và kích thích sự phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp trong nước. Cùng với sự hoạt động của các KCCN một lượng không nhỏ các kỹ thuật công nghệ tiên tiến, dây chuyền sản xuất đồng bộ, kỹ năng quản l hiện đại…đã được chuyển giao và áp dụng thành công trong các ngành công nghiệp; Việc chuyển giao công nghệ của khu vực FDI tới các doanh nghiệp trong nước đã góp phần thúc đẩy vào việc tăng năng suất, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong các ngành công nghiệp. Bên cạnh đó các KCCN cũng là nơi sản xuất tập trung và được trang bị kỹ thuật hiện đại, có kỹ năng quản lý tiên tiến từ các doanh nghiệp FDI. Các cán bộ quản l , công nhân kỹ thuật làm việc tại các KCCN sẽ được đào tạo và đào tạo lại về kinh nghiệm quản l , phưong pháp làm việc với công nghệ hiện đại, tác phong công nghiệp …. Những kết quả này sẽ lôi cuốn và tạo động lực buộc các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý nhằm tăng năng lực cạnh tranh.

Bốn là, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng thu nhập cho người lao động. Xây dựng và phát triển KCCN đã thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc tại các KCCN và đã có tác động tích cực tới việc xóa đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong cộng đồng dân cư đồng thời góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên. Có thể nói các KCCN đóng góp rất lớn vào việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế và hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại thông qua việc xây dựng các cơ sở đào


tạo nghề, liên kết gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm giữa các doanh nghiệp KCCN với nhà trường.

Năm là, thúc đẩy việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng và là hạt nhân hình thành đô thị mới. Xây dựng và phát triển các KCCN trong phạm vi từng tỉnh, thành phố, vùng kinh tế và quốc gia là hạt nhân thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCCN tại các địa phương, cụ thể:

Sáu là, giúp bảo vệ môi trường sinh thái. KCCN là nơi tập trung số lượng lớn nhà máy công nghiệp, do vậy có điều kiện đầu tư tập trung trong việc quản l , kiểm soát, xử l chất thải và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy việc xây dựng các KCCN là tạo thuận lợi để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, khu dân cư đông đúc, hạn chế một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, cải thiện môi trường theo hướng thân thiện với môi trường phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.

2.2. Huy động vốn đầu tư cho khu, cụm công nghiệp ở địa phương

2.2.1. Các khái niệm liên quan

2.2.1.1. Vốn đầu tư

Vốn đầu tư là yếu tố đầu vào quan trọng và được sử dụng trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế quốc dân. Có thể hiểu vốn là tất cả những gì mà doanh nghiệp, nền kinh tế sử dụng vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tạo ra sản phẩm, hàng hóa có giá trị lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu.

Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư để đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp hoặc của xã hội.

Theo (Từ Quang Phương & Phạm Văn Hùng, 2013) thì: “Nguồn vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xá hội”.

Theo Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 của (Quốc Hội, 2020) thì: “Vốn đầu tư là tiền và tài sản khác theo quy định của pháp luật về dân sự và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh”.


Trong luận án này vốn hiểu như sau: vốn được hiểu là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư, hay đó chính là giá trị của các tài sản (vô hình, hữu hình) được chủ sở hữu vốn đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm mục đích hoàn vốn và thu lãi theo thời gian đầu tư.

Đầu tư là lĩnh vực tiêu dùng sản xuất (khác với tiêu dùng sinh hoạt) mang đặc tính: giá trị tài sản đầu tư phải được bảo toàn (hoàn vốn) sau thời gian sử dụng kèm theo một khoản lãi (khoản lãi này phụ thuộc vào việc kinh doanh vốn đầu tư).

Hay nói cách khác: Vốn đầu tư là khoản tiền cần có để trang trải các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.

2.2.1.2. Huy động vốn đầu tư

Theo Nguyễn Như Ý (2013) thì: “Huy động là điều nhân lực, của cải cho một công việc lớn”. Như vậy huy động chính là một hoạt động nhằm điều động nhân lực và vật lực cho một mục đích nào đó.

Huy động vốn đầu tư có thể hiểu là việc sử dụng cơ chế, chính sách và các phương thức thích hợp nhằm điều động hay tập trung một phần nguồn vốn hiện hữu trong và ngoài nước tạo ra nguồn lực tài chính phục vụ cho các nhu cầu đầu tư và phát triển. Tùy trong từng lĩnh vực cụ thể mà việc huy động sẽ có những cách thức, phạm vi và quá trình huy động khác nhau.

Từ các định nghĩa và quan điểm trên thì: Huy động vốn đầu tư cho KCCN là quá trình khai thác nhiều nguồn vốn khác nhau trong nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu tối ưu cho việc phát triển các KCCN bao gồm cả đầu tư hạ tầng các KCCN và đầu tư cho sản xuất kinh doanh trong các KCCN.

2.2.2. Các kênh huy động vốn đầu tư cho khu, cụm công nghiệp

Nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế rất đa dạng, có thể đến từ nhiều chủ thể, nhiều nguồn với quy mô và phạm vi khác nhau như từ các cá nhân, các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các tổ chức nước ngoài ở Việt Nam,... Mỗi nguồn có những ưu, nhược điểm và cách thức huy động khác nhau. Trong phạm vi của luận án, nguồn vốn đầu tư cho KCCN được khai thác theo hai kênh chính:


Một là, huy động từ nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm: nguồn vốn nhà nước, nguồn vốn tư nhân.

Hai là, huy động từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).

2.2.2.1. Kênh huy động trong nước

Các nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm: nguồn vốn đầu tư của nhà nước, nguồn vốn của tư nhân.

a. Nguồn vốn nhà nước

Vốn đầu tư huy động từ nhà nước thực chất chính là nguồn vốn ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.

(1) Nguồn vốn ngân sách

Nguồn vốn ngân sách chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Đối với đầu tư KCCN thì nguồn vốn ngân sách thường được chi cho quy hoạch xây dựng các KCCN, đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ bên trong và bên ngoài KCCN nhằm tạo quỹ đất sạch, tạo môi trường đầu tư đồng bộ để thu hút các dự án đầu tư thứ cấp.

- Nguồn vốn ngân sách có ưu điểm là được sử dụng lâu dài, chủ động về thời gian sử dụng và không chịu áp lực trả lãi. Tuy nhiên nguồn tài trợ từ ngân sách nhà nước thường có hạn trong khi nhu cầu về vốn của các chương trình, dự án đặc biệt các chương trình, dự án đầu tư hạ tầng các KCCN thường rất lớn. Chính vì vậy sử dụng vốn ngân sách Nhà nước nếu không quản lý tốt sẽ gây lãng phí, thất thoát, vốn sử dụng không hiệu quả.

- Cách thức huy động: cơ chế huy động vốn qua kênh NSNN chính là phân

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 22/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí