chứng khoán hay qua kênh phát hành trái phiếu chính quyền địa phương là gần như chưa được quan tâm. Đối với hình thức huy động thì chủ yếu huy động qua đầu tư trực tiếp, đầu tư góp vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, hình thức huy động qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp trên thị trường tài chính hay huy động qua hình thức xã hội hóa, kết hợp nhà nước và tư nhân cũng chưa được thực hiện.
Thứ ba, cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư vẫn chưa thực sự hấp dẫn và linh hoạt.
Hiện nay, hầu hết các mô hình KCCN nói chung và KCCN Phú Thọ nói riêng đều được hưởng một số ưu đãi đầu tư (thuế TNDN, thuế nhập khẩu, tín dụng, đất đai…) theo quy định của Chính Phủ, nhưng bên cạnh đó cũng có các cơ chế, chính sách ưu đãi riêng của từng địa phương. Tuy nhiên, đối với tỉnh Phú Thọ các ưu đãi này còn chưa thật sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư và có tính cạnh tranh quốc tế do các lý do sau:
- Các ưu đãi này đều nằm trong khung pháp luật hiện hành, áp dụng chung như các ngành, khu vực khác trên cả nước. Vì vậy, các ưu đãi chưa có tính đặc thù, vượt trội.
- Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đã không còn phù hợp, không khả thi, nên khó thuyết phục nhà đầu tư; nhất là cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư vào kết cấu hạ tầng các KCCN; chính sách hỗ trợ về thuế, và chưa thực sự có giải pháp xúc tiến đầu tư hiệu quả, tạo được sức hút, hấp dẫn các nhà đầu tư lớn và chưa phát huy lợi thế xúc tiến đầu tư thông qua các nhà đầu tư và doanh nghiệp hiện có.
- Thủ tục thực hiện ưu đãi đầu tư chưa được hoàn thiện, nhanh gọn nên tăng chi phí, thời gian của doanh nghiệp khi phải giải trình, cung cấp các tài liệu liên qua cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được hưởng ưu đãi.
- Quan điểm của tỉnh và Ban quản l các KCCN cũng như các chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng vẫn ưu tiên tập trung thu hút đầu tư lấp đầy, chưa thực sự chú trọng đến cơ cấu ngành nghề, công nghệ và yếu tố môi truờng của các dự án nên công tác xúc tiến đầu tư còn mang tính hình thức, hiệu quả xúc tiến của các đoàn ở nước ngoài chưa cao, chủ yếu vẫn là hình thức đi tham quan, học tập kinh nghiệm. Bên cạnh đó hoạt động quảng bá các KCCN ra nuớc ngoài còn khiêm tốn,
các trang website giới thiệu về KCCN của tỉnh mặc dù đã được thiết kế xây dựng, nhưng không có nhiều thông tin được đăng tải, không có tính cập nhật.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Nguồn Vốn Đầu Tư Theo Lĩnh Vực, Ngành Nghề Thu Hút
- Kiểm Định Chất Lượng Thang Đo (Cronbach’S Alpha)
- Đánh Giá Thực Trạng Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Khu, Cụm Công Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Phú Thọ
- Mục Tiêu Phát Triển Các Khu, Cụm Công Nghiệp Và Huy Động Vốn Đầu Tư Cho Khu, Cụm Công Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Phú Thọ
- Hoàn Thiện Cơ Chế, Chính Sách Ưu Đãi Đầu Tư
- Cải Thiện Và Nâng Cao Chất Lượng Môi Trường Sống Và Làm Việc
Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.
Thứ tư, chưa chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Phú Thọ là một tỉnh có dân số khá đông, lực lượng lao động dồi dào nhưng việc tuyển dụng lao động của nhiều doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn, không chỉ đối với tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn cao mà còn cả với lao động phổ thông. Mặt khác chất lượng lao động còn yếu, trình độ tay nghề, sức khỏe cũng như tính kỷ luật hay kiến thức, kỹ thuật còn rất hạn chế. Điều này là do tỉnh còn chưa xây dựng được chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề đáp ứng yêu cầu sản xuất để cung cấp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI có sử dụng công nghệ hiện đại.
Thứ năm, chưa chú trọng khai thác và phát huy các lợi thế đầu tư.
Các KCCN tỉnh Phú Thọ đa phần được xây dựng theo mô hình tổng hợp, không có tính liên kết giữa các KCCN trên cùng địa bàn và với các địa phương khác. Chính vì vậy không hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh qua việc tiết giảm chi phí vận chuyển, tạo ra chuỗi liên kết và cung ứng giữa các công ty để đảm bảo cho nguyên vật liệu đầu vào cũng như sản phẩm đầu ra.
3.3.3.2. Nhóm nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, tỉnh Phú Thọ là một tỉnh có vị trí địa lý kém lợi thế so với một số tỉnh lân cận, chi phí cho việc bồi thường và giải phóng mặt bằng khá cao, suất đầu tư kết cấu hạ tầng KCCN lớn, thiếu lực lượng lao động kỹ thuật cao nên cũng khó khăn trong việc thu hút các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN. Tỉnh cũng là một địa phương có xuất phát điểm kinh tế thấp, nền kinh tế vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ của ngành công nghiệp chậm đổi mới, vốn đầu tư đòi hỏi lớn nhưng khả năng và ngân sách của tỉnh có hạn nên việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế và trong xã hội cho đầu tư phát triển cũng hạn chế. Nguồn vốn ngân sách phân bổ cho xây dựng cơ sở hạ tầng KCCN tạo quỹ đất sạch cho nhà đầu tư thường chỉ chiếm 5-10% nhu cầu đầu tư của kế hoạch năm.
Thứ hai, do nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách còn hạn chế, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng lại dòi hỏi vốn lớn, dẫn đến tiến độ đầu tư KCCN từ vốn ngân sách tỉnh chậm, kéo dài trong nhiều năm. Điều kiện kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, chưa thực sự thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, nên khó thu hút các dự án lớn, các nhà đầu tư tiềm năng. Đối với nguồn lực tài chính huy động từ ngân sách nhà nước thì đối với bất kỳ địa phương nào cũng phải phụ thuộc vào tình hình cân đối vốn chương trình hỗ trợ mục tiêu từ ngân sách trung ương dành cho đầu tư các KCCN nên còn thiếu tính chủ động. Bên cạnh đó đối với nguồn vốn vay ngân sách, tín dụng trong nước thì thường chỉ ưu tiên bố trí cho các dự án lớn, các lĩnh vực đầu tư theo chính sách của Nhà nước. Nguồn vốn vay ưu đãi ODA cũng chỉ cấp đối ứng cho các dự án đầu tư hạ tầng đô thị, hay các dự án có khả năng thu hồi vốn từ chính dự án, các dự án cấp bách về giao thông, bảo vệ môi trường,...nên đối với tỉnh Phú Thọ tính cho đến này mới chỉ có một dự án là nhà máy xử l nước thải ở KCN Thụy Vân là tranh thủ được nguồn lực tài chính huy động từ vốn ODA này.
Tóm tắt chương 3
Hoạt động huy động vốn đầu tư cho KCCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn 2015-2020 đã đạt được nhiều kết quả tích cực như: tỉnh cũng đã từng bước đa dạng hóa các kênh huy động vốn đầu tư cho KCCN, quy mô nguồn vốn cho đầu tư cơ sở hạ tầng các KCCN tăng lên, hoạt động huy động vốn qua thu hút các dự án đầu tư thứ cấp vào KCCN được đẩy mạnh,….Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động huy động vốn đầu tư cho các KCCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: quy mô nguồn vốn huy động còn hạn chế và phụ thuộc nhiều vào khu vực kinh tế trong nước, việc huy động vốn cho đầu tư hạ tầng các KCCN còn gặp nhiều khó khăn, chưa đa dạng được kênh và hình thức huy động, chủ yếu còn phụ thuộc vào vốn ngân sách; tốc độ tăng quy mô nguồn vốn huy động cũng chưa tương xứng với số dự án đầu tư thu hút; về cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư của tỉnh cũng chưa có sự khác biệt so với nhiều địa phương khác.
Qua việc phân tích định tính và định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào KCCN, luận án rút ra được một số nguyên nhân chính như sau: cơ sở hạ tầng các KCCN tỉnh Phú Thọ chưa được đầu tư đồng bộ gây cản trở đến hoạt động thu hút đầu tư thứ cấp; cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư vẫn chưa thực sự hấp dẫn và linh hoạt; tỉnh còn khá e dè và chưa chủ động trong việc đa dạng hóa các kênh, các hình thức huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư hạ tầng các KCCN; và các nguyên nhân khác như: vấn đề về chất lượng nguồn nhân lực, nhân tố truyền thông hay lợi thế đầu tư còn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Đây là cơ sở để tác giả đề xuất một số giải pháp khắc phục trong nội dung chương 4.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ CHO KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
4.1. Định hướng và mục tiêu phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
4.1.1. Định hướng phát triển các khu, cụm công nghiệp tỉnh Phú Thọ
4.1.1.1. Bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước
a. Kinh tế quốc tế
Năm 2020, đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng khắp toàn cầu đã khiến kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên, trong đầu năm 2021, sau khi triển khai vắc xin hiệu quả và các nền kinh tế đối phó tốt hơn với dịch COVID- 19, triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt trong những tháng đầu năm 2021. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ phục hồi mạnh khi niềm tin, tiêu dùng và thương mại dần được cải thiện nhờ nỗ lực tiêm chủng trên toàn thế giới. Các nền kinh tế phát triển được dự báo sẽ phục hồi, với mức tăng trưởng lần lượt đạt 3,3% và 3,5% vào năm 2021 và 2022. Tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự báo đạt 5% vào năm 2021 nhờ kinh tế của Trung Quốc được phục hồi và giảm xuống 4,2% vào năm 2022.
Tăng trưởng của một số nước chủ yếu đầu tư trực tiếp vào Việt Nam:
- Nhật Bản: là quốc gia sớm quản lý hiệu quả đại dịch COVID-19, cùng với các gói hỗ trợ tài chính lớn chưa từng có của Chính phủ đã thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế Nhật Bản phục hồi trong Quý III/2020. Tuy nhiên, quá trình phục hồi nhanh chóng bị mất động lực khi làn sóng COVID-19 lần thứ hai bùng phát trở lại làm giảm tiêu dùng. Sau khi tăng trưởng kinh tế ước tính giảm khoảng 5,3% năm 2020, hoạt động kinh tế dự báo sẽ tăng 2,5% trong năm 2021 khi gói kích thích tài chính bổ sung được triển khai và các ca mắc COVID-19 mới ở mức thấp, đại dịch từng bước được kiểm soát và các biện pháp kiềm chế dịch bệnh dần được dỡ bỏ. Tăng trưởng dự báo đạt 2,3% trong năm 2022.
- Trung Quốc: Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt 2% năm 2020, tốc độ tăng trưởng chậm nhất kể từ năm 1976 nhưng cao hơn các mức dự báo đưa ra trước đó, nhờ kiểm soát đại dịch hiệu quả và kích thích đầu tư công. Phục hồi kinh tế đã vững chắc nhưng không đồng đều, tiêu dùng phục hồi chậm hơn sản xuất công nghiệp. Trong năm 2020, nhập khẩu tăng trưởng chậm lại, xuất khẩu phục hồi, góp phần làm tăng thặng dư tài khoản vãng lai. Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc dự báo đạt 7,9% trong năm 2021 do nhu cầu bị dồn nén được bung ra sau đại dịch. Dự báo GDP của quốc gia này tăng 5,2% năm 2022.
- Khu vực Đông Nam Á: Theo OECD, đại dịch COVID-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng ở châu Á gồm: Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ. Sự phục hồi trong Qu III/2020 đã bị gián đoạn do đại dịch bùng phát trở lại. OECD dự báo tăng trưởng GDP thực tế trung bình của ASEAN năm 2021 đạt 5,1%, sau khi giảm 3,4% vào năm 2020. Tuy nhiên, tăng trưởng sẽ không đồng đều giữa các quốc gia.
Như vậy có thể thấy bối cảnh kinh tế quốc tế năm 2021 cùng với sự hồi phục của các nền kinh tế của các nước chủ yếu đầu tư vào Việt Nam sẽ vừa mang đến những cơ hội cũng như những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư vào các KCCN nói riêng.
b. Kinh tế trong nước
Báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 02/2021 của WB nhận định kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi với tăng trưởng vững chắc về doanh số bán lẻ và sản xuất công nghiệp, cũng như kết quả tốt từ hoạt động ngoại thương. Tăng trưởng tín dụng ổn định trở lại sau khi bật tăng mạnh vào cuối năm 2020. Mức tăng này khẳng định quy mô tín dụng dành cho khu vực tư nhân được đẩy nhanh, một phần do tác động của chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một phần do nhu cầu của cả doanh nghiệp và hộ gia đình tăng.
Như vậy với những nỗ lực trong việc kiểm soát dịch bệnh và phục hồi kinh tế đã tạo nên một môi trường đầu tư l tưởng không chỉ đối các nhà đầu tư nước ngoài mà còn cho các nhà đầu tư trong nước. Các nhà kinh tế cũng đã nhận định “Covid-
19 đã thổi bùng làn sóng dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc nhanh hơn, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đón nhận các dòng đầu tư từ những công ty hàng đầu, tầm cỡ quốc tế”.
Đặc biệt tại Phú Thọ, mặc dù chịu tác động mạnh của dịch bệnh COVID-19 đối với sự tăng trưởng kinh tế nhưng tỉnh vẫn chưa điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2020, đồng thời phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Phú Thọ, trong thời gian tới tỉnh sẽ đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, cắt giảm các thủ tục còn rườm rà, phức tạp, nhất là các thủ tục liên quan đến lĩnh vực đầu tư; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đẩy mạnh xúc tiến đầu tư theo hướng trực tiếp, trọng tâm, trọng điểm; chú trọng triển khai các giải pháp hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, tích cực chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho các dự án đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư thực hiện thành công dự án và phát triển bền vững với phương châm “Thành công của các bạn chính là thành công của chúng tôi”.
4.1.1.2. Định hướng phát triển các khu, cụm công nghiệp giai đoạn 2021-2025
Nghị Quyết Số 11/NQ-HĐND (2021) của HĐND Tỉnh về Kế Hoạch Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội 5 năm 2021-2025 đã định hướng cho việc phát triển các KCCN trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế và kinh tế trong nước như sau:
Thứ nhất, quy hoạch, xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng KCCN.
- Quy hoạch phát triển các KCCN phải phù hợp với quy hoạch phát triển KCCN của cả nước, của vùng và của tỉnh. Tập trung phát triển công nghiệp với tốc độ cao, tạo tiềm lực tăng nhanh quy mô giá trị sản xuất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá để đưa Phú Thọ cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 và đến năm 2030 là tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng công nghệ cao.Phát huy vai trò các ngành công nghiệp truyền thống có thế mạnh, đồng thời khai thác các tiềm năng lợi thế của tỉnh để phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp mới, chế biến sâu có giá trị gia tăng lớn.
- Nâng cao chất lượng xây dựng kết cấu hạ tầng KCCN theo hướng xây dựng
một cách đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật với các tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ cho KCCN; gắn kết cấu hạ tầng trong hàng rào với ngoài hàng rào KCCN. Đa dạng các nguồn vốn để đầu tư xây dựng nhà ở và các công trình tiện nghi, tiện ích phục vụ đời sống người lao động KCCN.
- Huy động tổng hợp các nguồn vốn, trong đó phát huy tối đa các hình thức PPP để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCCN. Nghiên cứu xem xét nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCCN, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ từ NSNN.
Thứ hai, cải thiện chất lượng thu hút đầu tư vào KCCN.
- Tập trung ưu tiên thu hút các ngành nghề, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường, các ngành nghề xác định là mũi nhọn phát triển và có lợi thế của Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng và phù hợp với định hướng tái cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư của tỉnh.
- Tăng cường tính liên kết ngành trong phát triển KCCN, hình thành các cụm liên kết ngành trên cơ sở các dự án quy mô lớn đã thu hút được tại các KCCN.
- Tăng cường đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, đa dạng hóa bằng nhiều hình thức; ưu tiên thu hút các dự án sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, các dự án có quy mô lớn, có công nghệ tiến tiến, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên, có giá trị gia tăng cao, có khả năng thu nộp ngân sách và thân thiện với môi trường. Tiếp tục cập nhật và biên soạn, biên dịch mới tài liệu quảng bá thông tin đầu tư theo mới với 5 thứ tiếng; Việt, Anh, Hàn, Nhật, Trung Quốc. Xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư, tham gia hội nghị xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Nâng cấp, duy trì cập nhật thường xuyên hoạt động trang Website về các hoạt động xúc tiến đầu tư. Nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào các KCCN tập trung trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba, tăng cường bảo vệ môi trường và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Cụ thể: (i) Phát triển KCCN phải đi đôi với bảo vệ môi trường, đảm bảo tuân thủ các điều kiện về môi trường môi sinh trong xử l nước thải, chất thải trong KCCN, hướng tới phát triển KCCN một cách bền vững; (ii) Tổ