Định Hướng Phát Triển Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam


CTCK nào cũng có thể làm được khi mà qui mô vốn của các CTCK còn rất thấp.

Trình độ, năng lực quản trị, nhất là quản trị rủi ro còn yếu. Vì đây là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ đối với Việt nam, do vậy các nhà quản trị của các CTCK nhìn chung chưa có kinh nghiệm trong việc quản lý hoạt động cũng như kiểm soát rủi ro trong kinh doanh chứng khoán. Các nhà quản trị các CTCK vừa làm vừa rút kinh nghiệm dẫn tới sự thiếu ổn định và thiếu tính chuyên nghiệp.

Số lượng nhân viên vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chuyên môn. Đội ngũ nhân viên hành nghề ở các CTCK hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc cũng như của khách hàng. Một nhân viên đảm đương quá nhiều việc do đó không thể làm tốt chuyên môn. Số lượng nhân viên hành nghề trong các CTCK được cấp chứng chỉ của UBCKNN chỉ khoảng hơn 300 nhiên viên, con số này quá ít đối với các CTCK khi khối lượng công việc đòi hỏi số lượng nhân viên lớn hơn nhiều.

Mặt khác, việc đào tạo cấp chứng chỉ của UBCKNN cũng đang gặp phải sự quá tải do nhu cầu từ phía các CTCK và xã hội quá lớn trong khi chỉ có một tổ chức được phép đào tạo và cấp chứng chỉ. Điều đó đã dẫn tới, các CTCK chỉ có thể đáp ứng yêu cầu tối thiểu về vị trí công việc theo qui định của pháp luật, còn lại hầu hết các nhân viên chưa có hoặc có nhưng chưa đủ 3 chứng chỉ hành nghề do UBCKNN qui định.

Nội dung đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề cho nhân viên làm việc trong các CTCK lại chưa có sự chuyên sâu theo vị trí công việc hay theo nghiệp vụ. Do đó, nếu có đủ chứng chỉ hành nghề nhân viên của CTCK có thể làm bất cứ bộ phận nghiệp vụ nào. Chính vì vậy, chất lượng của đội ngũ nhân viên phần nào bị ảnh hưởng và tính nghiệp vụ chưa cao dẫn đến chất lượng cung cấp dịch vụ cũng bị ảnh hưởng..


Cơ cấu tổ chức bộ máy chưa hợp lý. Việc sắp xếp các bộ phận phòng ban tuy đã theo hướng chuyên môn nghiệp vụ nhưng vẫn chưa khoa học. Một phòng vẫn thực hiện nhiều nghiệp vụ cùng một lúc. Chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các phòng ban. Do đó dẫn đến tính chuyên nghiệp trong hoạt động chưa cao, sự quá tải của nhân viên trong công việc.

Bộ phận kiểm soát nội bộ ở một số CTCK chưa thành lập, ở những CTCK đã có thì bộ phận này chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc giám sát các hoạt động của CTCK dẫn tới một số CTCK vẫn vi phạm những nguyên tắc hoạt động của TTCK làm ảnh hưởng tới lợi ích của nhà đầu tư.

Thiếu tính chủ động, năng động của bộ phận tự doanh trong các CTCKthuộc ngân hàng hay công ty mẹ. Bên cạnh lợi thế về sự trợ giúp của công ty mẹ, ngân hàng mẹ thì sự kiểm soát, kiểm tra quá chặt chẽ của cơ quan chủ sở hữu đã phần nào lại làm hạn chế sự mạnh dạn, năng động của bộ phận tự doanh trong các CTCK. Chẳng hạn, với số vốn cấp cho hoạt động tự doanh, CTCK không được phép toàn quyền chủ động đầu tư, phân tán rủi ro mà việc đầu tư vào loại nào phải theo một tỷ lệ nhất định mà Ngân hàng mẹ đã cho phép. Vấn đề phân cấp quản lý kinh doanh trong hoạt động tự doanh của các CTCK cũng còn nhiều bất cập.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.

Hoạt động tiếp thị, quảng cáo chưa được chú trọng. Các CTCK vẫn còn xem nhẹ vấn đề này, chưa tiến hành việc quảng cáo, tiếp thị các dịch vụ mà CTCK cung cấp cho từng đối tượng khách hàng. Các CTCK mới chỉ giới thiệu chung chung về các hoạt động, dịch vụ của CTCK ở ngay tại sàn của công ty hoặc trên trang web của công ty nhưng nội dung giới thiệu cũng còn hết sức sơ sài.

Thiếu chiến lược kinh doanh dài hạn. Các CTCK chưa xây dựng một chiến lược kinh doanh dài hạn, mới chỉ dừng lại ở việc đặt ra kế hoạch hoạt động trong ngắn hạn (hàng năm). Chính vì vậy, các CTCK chưa có được các biện pháp phát

Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 18


triển bền vững. Đồng thời, hầu hết các CTCK chưa chú tâm tới việc xây dựng qui trình cho từng hoạt động nghiệp vụ cụ thể. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới tính chuyên nghiệp không cao ở các CTCK hiện nay.

* Nguyên nhân khách quan


Hệ thống văn bản qui phạm pháp luật thiếu đồng bộ, kém hiệu lực.


+ Hiệu lực pháp lý của các qui phạm pháp luật chuyên ngành trực tiếp điều chỉnh hoạt động của CTCK không cao. Văn bản pháp lý cao nhất trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK nói chung và CTCK nói riêng mới chỉ dừng lại ở cấp Nghị định (tính đến hết năm 2006). Điều này đã giới hạn khả năng mở rộng hoạt động của các CTCK.

+ Các văn bản pháp luật về hướng dẫn việc thực hiện các nghiệp vụ chưa đầy đủ, tính cập nhật của văn bản pháp qui để điều chỉnh, hướng dẫn các nghiệp vụ mới phát sinh còn yếu. Các qui định trong các văn bản pháp luật phần nào đã hạn chế khả năng cung cấp các dịch vụ của các CTCK.

+ Qui định về mức phí đối với hoạt động bảo lãnh mà một CTCK được phép thu là 3%, mức phí này quá thấp trong khi hoạt động này chứa đựng nhiều rủi ro cho CTCK khi thực hiện bảo lãnh. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới hoạt động BLPH của các CTCK còn hạn chế.

+ Việc lựa chọn tổ chức thực hiện tư vấn cổ phần hóa DNNN do Bộ chủ quản của doanh nghiệp đó lựa chọn nên đã làm hạn chế tính chủ động của các CTCK trong việc tìm kiếm khách hàng.

+ Theo qui định hiện hành, nhà đầu tư (trong đó có CTCK) không được mua bán một loại chứng khoán trong cùng một phiên giao dịch, điều này vô tình đã không cho phép các CTCK thực hiện vai trò tạo lập thị trường. Vì với vai trò nhà tạo lập thị trường, các CTCK đồng thời phải yết mức giá sẵn sàng mua và bán cho một loại chứng khoán.


TTCK chưa phát triển. Hoạt động của CTCK có mở rộng hay không phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của TTCK. Ở Việt nam TTCK vẫn còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển, do vậy, các yếu tố cấu thành nên thị trường như hàng hóa, nhà đầu tư, các tổ chức hỗ trợ…vẫn còn thiếu. Do đó các CTCK gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai các hoạt động kinh doanh nói chung và với mỗi hoạt động nghiệp vụ cụ thể lại gặp phải những khó khăn riêng.

Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp, nhà đầu tư.


+ Hiểu biết của các doanh nghiệp về các dịch vụ mà CTCK cung cấp như: dịch vụ liên quan tới phát hành chứng khoán (tư vấn phát hành, BLPH) để huy động vốn cho sản xuất, dịch vụ tái cấu trúc vốn, phân tích tài chính, dịch vụ quản lý sổ cổ đông… chưa đầy đủ. Do vậy, việc sử dụng các dịch vụ của CTCK từ phía các doanh nghiệp còn hạn chế.

+ Các doanh nghiệp thường xuyên vi phạm chế độ công bố thông tin như thời gian, nội dung công bố thông tin, thông tin về các giao dịch có liên quan…Vì vậy, đã dẫn tới những khó khăn nhất định trong hoạt động của các CTCK.

+ Nhận thức của các nhà đầu tư trong đầu tư chứng khoán chưa cao do đó nhu cầu sử dụng các dịch vụ mà CTCK cung cấp còn thấp. Các nhà đầu tư vẫn có tâm lý thích tự mình lựa chọn loại chứng khoán, thời điểm để tiến hành mua bán chứng khoán hơn là ủy thác vốn cho các CTCK. Hơn nữa, các nhà đầu tư chưa hoàn toàn tin tưởng, yên tâm và đánh giá cao vào sự tư vấn từ phía các CTCK. Điều đó đã làm cho hoạt động TVĐTCK, QLDMĐT của các CTCK gặp khó khăn.



Như vậy, trong chương này, các hoạt động của các CTCK đã được phân tích qua các mốc thời gian khác nhau của TTCK Việt nam. Các mốc thời gian đó được đánh dấu bằng hai lần thay đổi văn bản pháp luật cao nhất điều chỉnh thị trường, lần thứ nhất vào cuối năm 2003 khi Nghị định 144/2003/NĐ-CP thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP; lần thứ 2 vào năm đầu năm 2007 khi Luật chứng khoán chính thức có hiệu lực.

Trong quá trình hoạt động một số CTCK đã dần khẳng định được vị trí trong từng hoạt động cụ thể qua số liệu về kết quả hoạt động của công ty ở các năm, cụ thể:

- Hoạt động môi giới, các công ty có thế mạnh là BVSC, VCBS, SSI, ARSC, trong đó BVSC và SSI mạnh về môi giới cổ phiếu còn ARSC và VCBS mạnh về môi giới trái phiếu.

- Hoạt động tự doanh, dẫn đầu là ARSC và VCBS trong hoạt động tự doanh trái phiếu; ACBS, SSI và BVSC dẫn đầu về tự doanh cổ phiếu.

- Hoạt động BLPH, chủ yếu tập trung vào 4 CTCK thuộc khối NHTMQD và BVSC.

- Hoạt động tư vấn tài chính và dịch vụ tài chính, BVSC, ACBS, SSI. Các hoạt động khác chưa được các CTCK chú tâm phát triển. Trong số các CTCK thành lập sau này, nổi lên một số công ty hoạt động có hiệu quả (chủ yếu ở hoạt động môi giới) như VNdirect, SBS, ABS, FPTS, KLS…

Do đó, có thể thấy trên thị trường đã có sự tách ra giữa tốp các CTCK dẫn đầu với các CTCK còn lại, các CTCK tạo được uy tín trên TTCK Việt nam thời gian qua gồm VCBS, SSI, BVSC, ARSC, ACBS và BSC.

Tuy nhiên, để các CTCK phát triển hơn nữa trong tương lai, cần phải có các giải pháp đồng bộ từ phía các CTCK cũng như các điều kiện cần thiết để thực thi các giải pháp đó. Vấn đề này sẽ được đề cập ở chương 3 của luận án.


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

3.1. Định hướng phát triển công ty chứng khoán ở Việt nam


3.1.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt nam


Chiến lược phát triển TTCK Việt nam từ nay đến năm 2010 đã được Chính phủ đưa ra tại quyết định 128/2007/QĐ-TTg ngày 2 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển thị trường vốn Việt nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, (quyết định này thay thế quyết định số 163/2003/QĐ-TTg ngày 5/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt nam đến năm 2010), cụ thể:

- Mục tiêu tổng quát:


Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế; đảm bảo tính công khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng cường quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu vực . [20]

- Mục tiêu cụ thể: "Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010 giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP". [20]


Nhằm thực hiện được các mục tiêu trên cần:


1. Hình thành và phát triển đồng bộ cơ cấu của thị trường vốn, trong đó thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng, bảo đảm huy động và phân bổ có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế; phối hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ; hội nhập thành công với thị trường vốn quốc tế.

2. Xây dựng và phát triển thị trường vốn có cấu trúc hợp lý, đảm bảo thị trường hoạt động minh bạch, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên thị trường.

3. Tổ chức vận hành thị trường vốn hoạt động an toàn, hiệu quả và lành mạnh; đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Đặc biệt trong ngắn hạn cần:


a. Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường:

+ Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại trái phiếu, các phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc gia;

+ Đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ phần hoá với niêm yết trên thị trường chứng khoán; mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường. Đối với những doanh nghiệp đã cổ phần hoá đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết; đồng thời tiến hành rà soát, thực hiện việc bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các


doanh nghiệp nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần. Chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hình thức công ty cổ phần và niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán;

+ Phát triển các loại chứng khoán phái sinh như: quyền chọn mua, quyền chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm liên kết (chứng khoán - bảo hiểm, chứng khoán - tín dụng, tiết kiệm - chứng khoán...); các sản phẩm từ chứng khoán hoá tài sản và các khoản nợ....

b. Từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước:

+ Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt. Từng bước nghiên cứu hình thành và phát triển thị trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường chứng khoán hoá các khoản cho vay trung, dài hạn của ngân hàng…;

+ Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị trường giao dịch tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung (OTC), thị trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ;

+ Nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường, đảm bảo khả năng liên kết với thị trường các nước trong khu vực;

+ Tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC) theo hướng có quản lý thông qua các giải pháp: thực hiện đăng ký, lưu ký tập trung đối với các công ty cổ phần đủ điều kiện theo quy định của Luật Chứng khoán; nghiên cứu cơ chế giao dịch đối với các chứng khoán không đủ điều kiện niêm yết theo mô hình thoả thuận thông qua các công ty

Xem tất cả 221 trang.

Ngày đăng: 26/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí