gia trên thế giới luôn xây dựng cho mình những chương trình nghị sự riêng. Có thế thấy GMS cũng không nằm ngoài xu thế tất yếu của thời đại.
Năm 1992: Rio de Janeiro, Brasil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có tên Chương trình Nghị sự 21(Agenda 21). Với sự tham gia của đại diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức phi chính phủ, hội nghị đã đưa ra bản Tuyên ngôn Rio về môi trường và phát triển cũng như thông qua một số văn kiện như hiệp định về sự đa dạng sinh học, bộ khung của hiệp định về sự biến đổi khí hậu, tuyên bố về nguyên tắc quản lý, bảo tồn rừng...
Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững nhóm họp tại Johannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm 10 năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu này bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia hội nghị cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi quốc gia trước năm 2005. Việt Nam cũng đã cam kết và bắt tay vào hành động với Dự án VIE/01/021 "Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam" bắt đầu vào tháng 11/2001 và kết thúc vào tháng 12/2005 nhằm tạo tiền đề cho việc thực hiện Vietnam Agenda 21.
Như vậy chương trình nghị sự 21 đặt ra những vấn đề phát triển bền vững ở thế kỉ XXI của tiểu vùng sông Mekong cũng đã được các nước trong GMS xây dựng và thực hiện.
- “Phát triển bền vững”: khái niệm được Liên Hợp Quốc định nghĩa là
:“ sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.”
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển tổ chức tại Rio de Janeiro ( Braxin) và Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về sự phát triển bền vững tổ chức tại Johannesburg ( Cộng hòa Nam Phi) đã xác định : “phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí hài hòa giữa sự phát triển của ba mặt : phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”. Tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển bền vững là : sự tăng trưởng kinh tế ổn định, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội , khai thác hợp lí, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm và nâng cao chất lượng môi trường sống.
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và là xu thế phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người, vì vậy các quốc gia trên thế giới luôn xây dựng cho mình những chương trình nghị sự riêng, có thế thấy GMS cũng không nằm ngoài xu thế tất yếu của thời đại. Chương trình nghị sự 21 là chương trình đặt ra những vấn đề phát triển bền vững ở thế kỉ XXI của tiểu vùng sông Mekong cũng đã được các nước trong GMS xây dựng và thực hiện.
Mục tiêu của GMS là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân lưu vực sông Mekong. Do vậy, các nước trong lưu vực đã thỏa thuận hợp tác phát triển hạ tầng giao thông, nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, viễn thông tạo thuận lợi cho thương mại, du lịch, đào tạo nguồn nhân lực. Các nước tham gia chương trình đã và đang thực sự là đối tác bình đẳng trong quá trình hợp tác tiểu vùng, chia
Có thể bạn quan tâm!
- Hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng sông Mekong giai đoạn 1990 - 2020 - 2
- Số Liệu Về Các Nước Trong Khu Vực Sông Mekong (Năm 2011) (Nguồn: Tổ Chức Lương Thực Của Liên Hiệp Quốc, Aquastat 2011, Lưu Vực Sông Mekong)
- Nguồn Lực Của Các Nước Trong Tiểu Vùng Sông Mekong
- Hợp Tác Du Lịch Đa Phương- Chìa Khóa Thúc Đẩy Kinh Tế, Xóa Đói Giảm Nghèo
- Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch, Nối Tour, Trao Đổi Đoàn Khách
- Nâng Cao Chất Lượng Quản Lý Nguồn Tài Nguyên Tự Nhiên Và Nhân Văn
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
sẻ trách nhiệm và đồng lòng thực hiện các nỗ lực chung, đảm bảo sự hợp tác thực tế và hiệu quả nhằm xây dựng GMS thành một khu vực hướng ngoại, hợp tác và phát triển hiệu quả, ổn định, dài hạn (GMS II Summit 2005) [29].
ASEAN luôn dành cho các nước tiểu vùng sông Mekong sự quan tâm đặc biệt. Tại cuộc họp thượng đỉnh tháng 12 năm 1995, ASEAN đã chính thức thông qua khái niệm về Sự hợp tác của ASEAN về tiểu vùng sông Mê Công (AMBD), trong đó, Malaixia đã đóng một vai trò nổi bật. Sau đó, tháng 06 năm 1996, một khuôn khổ hợp tác cơ bản được thỏa thuận tập trung vào các dự án phát triển nông nghiệp, du lịch, cơ sở hạ tầng, các dịch vụ sinh hoạt cơ bản, năng lượng, viễn thông, thương mại và đầu tư. Mục tiêu của những dự án này là tăng cường sự giúp đỡ hợp tác ASEAN và các nước thành viên của ASEAN có dòng Mekong chảy qua, nhằm làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển ở tiểu vùng Mekong, nâng cao mức sống, giúp đỡ các nền kinh tế chuyển sang định hướng thị trường hơn nữa, tiếp nhận sự giúp đỡ từ các quốc gia tài trợ và những tổ chức đa phương.
Là quốc gia thành viên trong tiểu vùng, năm 1993, Thái Lan đã đề xướng Chương trình hợp tác bốn bên (QED) nhằm phát triển tứ giác gồm Miền Bắc Thái Lan với Lào, Myanma và tỉnh Vân Nam- Trung Quốc. Chương trình hợp tác này đã nhận được sự đồng tình của cả các nước thượng lưu Tiểu vùng sông Mekong. Tuy nhiên, từ cuối năm 1993, các hoạt động triển khai chương trình đã giảm sút và bị thay thế bởi nhiều sáng kiến khác, đặc biệt là sáng kiến về Tiểu vùng sông Mekong mở rộng.
Sự hợp tác cùng phát triển ở tiểu vùng Mekong không chỉ là nguyện vọng của các quốc gia trong Tiểu vùng mà còn nhận được sự ủng hộ và khích lệ to lớn từ các nước đối tác bên ngoài. Trong đó, Nhật Bản là đối tác tích cực đã đề ra nhiều sáng kiến hợp tác và các chương trình tài trợ cho các nước Tiểu vùng Mekong. Năm 1993, Nhật Bản đã đề xướng thành lập Diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương (FCDI). Diễn đàn được chính thức thành lập năm
1995 tại Tokyo. Diễn đàn này phối hợp các hoạt động phát triển các quốc gia và những tổ chức đa phương trong việc cung cấp viện trợ cho Việt Nam, Lào, Campuchia để nâng cao tính công dụng và hiệu quả ở những nước này. Diễn đàn này bao gồm các Ủy ban công tác về phát triển cơ sở hạ tầng và nhân lực và một nhóm tư vấn khu vực tư nhân. Nó phối hợp với UNDP và ADB để tập hợp tất cả những dự án viện trợ ở ba nước nhằm tránh sự trùng lặp và xác định ra những khu vực đã dành được quá nhiều sự ưu tiên.
Tiếp đó, Nhật Bản lại đưa ra sáng kiến về Chương trình hợp tác tiểu vùng tại cuộc họp của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN với Bộ Ngoại giao và Công nghiệp Nhật Bản (AEM-MITI) năm 1994 dành riêng cho Lào, Campuchia và Mianma, trong đó tập trung vào chính sách chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đầu tư, thương mại và công nghiệp. New Zealand và Thái Lan đã thành lập Viện Nghiên cứu Mekong có trụ sở ở thành phố Khon Kaen, Đông bắc Thái Lan. Viện này là địa chỉ cung cấp các chương trình đào tạo và thực hiện việc nghiên cứu chính sách đối với tiểu vùng. Trung tâm luật Mekong cũng được lập ra với nhiều mạng lưới nghiên cứu phát triển sông Mekong và cơ chế đối thoại sông Mekong vì sự phát triển bền vững. Các tổ chức quốc tế và các tổ chức viện trợ, bao gồm cả Chương trình viện trợ quốc tế Australia cũng đã lập ra những chương trình về tiểu vùng trên từng lĩnh vực.
Như vậy, kể từ khi các chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mekong ra đời, đến nay đã có nhiều dự án được đầu tư và thực hiện, nhất là trong hai lĩnh vực giao thông và năng lượng. Tất cả các quốc gia đều hiểu rằng tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước trong tiểu vùng là một yếu tố bổ sung quan trọng trong chiến lược phát triển của từng quốc gia. Hình thức hợp tác này cho phép các quốc gia nâng cao vị trí có tính cạnh tranh quốc tế của mình, đồng thời cho phép họ đáp ứng một cách hiệu quả hơn - với tư cách như một tập thể, cũng như với tư cách từng cá nhân – những cơ hội phát triển
kinh tế đang ngày càng mở rộng trong phạm vi khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu.
Có thể nói, một số lượng lớn các sáng kiến, chương trình hợp tác ra đời đã tạo cơ sở cho sự lạc quan rằng với sự nỗ lực của các quốc gia tiểu vùng sông Mekong và sự trợ giúp tích cực của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, tiểu vùng Mekong sẽ trở thành khu vực phát triển năng động và tương lai sẽ đạt được sự thịnh vượng về kinh tế.
Trong các sáng kiến, chương trình hợp tác trên, hợp tác kinh tế tiểu vùng Mekong mở rộng nhận được sự quan tâm và đánh giá cao. Bởi đây là cơ chế hợp tác thu hút được sự tham gia của tất cả các nước có sông Mekong chảy qua, hoạt động hợp tác ngày càng sâu rộng cũng như nhận được sự hỗ trợ tài chính từ nhiều tổ chức tài chính quốc tế và khu vực.
1.2. Hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong và hợp tác du lịch đa phương
1.2.1. Hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong
Tại Hội nghị thượng đỉnh 6 nước tiểu vùng sông Mekong tháng 3-2008, Phó Chủ tịch Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) Lawrence Greenwood đã từng phát biểu: “Mười lăm năm trước, khi các quốc gia Mekong vẫn còn những bất đồng và nghèo đói, một số người đã mạnh dạn dự đoán các quốc gia này sẽ đạt được những tiến bộ vượt quá dự kiến trong việc giảm nghèo và tăng nhanh các triển vọng kinh tế”[9]. Sau đó, tuyên bố chung được đưa ra tháng 1-2009 của các bộ trưởng du lịch 6 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma, Trung Quốc về việc phát triển du lịch GMS đã góp phần hiện thực hóa dự đoán trên [ 28]. Các nhà làm du lịch đã ghi nhận những tiến triển hợp tác du lịch của các nước GMS và thống nhất những định hướng trong tương lai. Trong thời gian tới, các nước sẽ tập trung khai thác cơ sở hạ tầng và sự kết nối trong tiểu vùng để thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, có trách nhiệm với xã hội, tăng cường xúc tiến để du lịch GMS trở thành một điểm đến chung.
Du lịch là một trong số 09 lĩnh vực ưu tiên của hợp tác GMS, được xem là một lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh của tiểu vùng Mekong, tạo ra nhiều việc làm và mang lại những lợi ích cụ thể cho người dân trong khu vực. Với hệ thống sông ngòi phong phú, tập quán sinh hoạt trên sông đa dạng của người dân bản địa như chợ nổi, làng bè..., du lịch dọc sông Mekong chắc chắn sẽ tạo ra nhiều hứng thú cho du khách.
Nhìn trên bản đồ đường bộ của các nước thuộc khu vực sông Mekong, có thể thấy hàng loạt tuyến đường xuyên quốc gia. Nếu ở phía Đông (điểm cuối của hai tuyến đường tại Việt Nam) là những bãi biển dài từ Đà Nẵng tới Nghệ An với những di sản thế giới tuyệt đẹp của miền Trung như Hội An, Huế hay động Phong Nha – Kẻ Bàng, thì ở phía Tây là những chùa vàng rực rỡ với những đặc trưng văn hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan và Lào. Du khách quốc tế khi đến vùng Đông Bắc Thái Lan có thể tiếp tục hành trình qua Lào sang Việt Nam và ngược lại.
Bản đồ các nước tiểu vùng sông Mekong (http://www.theworldmap.net/continent/big/mekong-region-map/)
Trong số sáu quốc gia thuộc tiểu vùng GMS, có đến 5 quốc gia có các di sản văn hóa thế giới với nhiều điểm du lịch nổi tiếng, hấp dẫn. Từ đó, ý tưởng về “Sáu quốc gia - một điểm đến” ra đời và được ủng hộ, minh chứng cho một bước tiến quan trọng trong quá trình hợp tác du lịch của các nước trong tiểu vùng. Những kiến nghị của Chương trình Nghiên cứu Chiến lược Du lịch tiểu vùng GMS đưa ra hướng tiếp cận đối với phát triển du lịch, bao gồm việc thực hiện các dự án ưu tiên và xúc tiến du lịch môi trường sinh thái và chống đói nghèo được Chính phủ các nước rất hoan nghênh. Các quốc gia trong tiểu vùng sông Mekong mở rộng đã tìm kiếm và nhận được sự trợ giúp kỹ thuật từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhằm hoạch định chiến lược phát triển du lịch và kế hoạch hành động. Điểm chính trong chiến lược là thúc đẩy phát triển cả tiểu vùng sông Mekong như là một điểm đến du lịch. Điều đó thực hiện bằng cách đảm bảo sự phát triển mở rộng hoạt động du lịch bền vững, tăng tính hấp dẫn của cả tiểu vùng nhằm giảm đói nghèo và phân bổ hợp lý lợi ích do du lịch mang lại, giảm thiểu mọi tác động tiêu cực đối với xã hội và môi trường từ du lịch.
Việc liên kết các nước thuộc tiểu vùng nhằm tạo ra một sản phẩm du lịch chung sẽ là một giải pháp góp phần làm phong phú hơn nguồn tài nguyên du lịch, đồng thời có khả năng tạo ra những nét ấn tượng, độc đáo mang bản sắc rất riêng của tiểu vùng.
Chiến lược nghiên cứu trên đây tập trung vào một số vấn đề thông qua 07 chương trình chính như sau:
- Xúc tiến quảng bá, marketing cả tiểu vùng như là một điểm đến du
lịch
- Phát triển nguồn nhân lực;
- Thúc đẩy quản lý các khu vực bảo tồn văn hóa thiên nhiên cũng như
các khu vực có di sản thiên nhiên quan trọng cho hoạt động du lịch và chú trọng tới các tác động tiêu cực của du lịch;