PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CÁC VÙNG LÃNH THỔ TRONG KHU VỰC TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG
1.1. Khái quát về tiểu vùng sông Mekong
1.1.1. Về điều kiện tự nhiên, xã hội
Sông Mekong là con sông dài thứ 12 trên thế giới, bắt nguồn từ độ cao 5000m trên cao nguyên Tây Tạng chảy qua lãnh thổ 6 quốc gia gồm Trung Quốc, Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và đổ ra biển trên lãnh thổ của Việt Nam, với chiều dài trên 4800 km, với tổng lượng nước hàng năm khoảng 475 tỉ m3 nước. Từ bao đời nay, dòng sông mang trong mình trữ lượng tài nguyên nước lớn trong khu vực phục vụ phát triển kinh tế trong các lĩnh vực như tưới tiêu trong phát triển nông nghiệp, thủy điện, giao thông, và các mục đích phi nông nghiệp và du lịch.
Sáng kiến Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở rộng được khởi xướng năm 1992 bởi Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). “Tiểu vùng sông Mekong” (Greater Mekong Subregion) viết tắt là GMS bao gồm các nước thành viên Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc (với 2 tỉnh đại diện là Vân Nam và Quảng Tây), vốn là khu vực kinh tế tự nhiên gắn kết với nhau bởi sông Mekong. Dòng sông Mekong vừa là biên giới tự nhiên vừa là huyết mạch giao thông quan trọng nối các nước trong vùng với nhau. GMS có diện tích 2,6 triệu km2 và có dân số hơn 325 triệu người.
Bản đồ tiều vùng sông Mekong mở rộng
Nguồn: http://vietbao.vn/The-gioi/Thu-tuong-6-nuoc-du-hoi-nghi-thuong- dinh-GMS/20465029/159/
Nguồn thủy sinh sông Mekong là kho tài nguyên vô cùng phong phú, chỉ đứng sau sông Amazon, với nhiều loài cá nước ngọt quý hiếm. Sông
Mekong còn là tuyến đường giao thông tự nhiên của Đông Nam Á, kết nối sáu quốc gia trong vùng trên một mạch chảy liên hoàn từ thượng nguồn Tây Tạng ra đến Biển Đông. Dọc theo dòng chảy sông Mekong, nhiều cảnh quan núi đá, cao nguyên, trung du, đồng bằng, cửa biển…với sự đa dạng về văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán, tôn giáo của cư dân sống ven sông sẽ là nội lực thúc đẩy du lịch-lĩnh vực tiềm năng của tiểu vùng. Có thể nói, nguồn tài nguyên mà sông Mekong mang lại vô cùng to lớn, có ý nghĩa sống còn đối với người dân trong khu vực, ở cả sáu quốc gia có chung một dòng sông.
Về mặt địa lí, địa chất và địa hình: Tài nguyên phân bố không đồng đều giữa tả ngạn và hữu ngạn ở vùng thượng lưu sông Mekong, vùng Đông Bắc Thái Lan đất rộng nhưng ít nước, trong khi đó ở Lào có nguồn nước phong phú thì diện tích đất canh tác lại hạn chế. Có 5 vùng hình thái đất đai riêng biệt gồm vùng núi phía Bắc, Cao nguyên Korat, vùng núi phía Đông, vùng đồng bằng và vùng cao phía Nam.
Về khí hậu, là vùng khí hậu chịu sự chi phối của gió mùa, những đợt gió có cường độ thấp đến trung bình, luôn phiên theo mùa.
Chế độ mưa, lượng mưa toàn khu vực nhiều nhưng phân bố không đều khiến cho các vùng trong năm đều bị hạn hán theo mức độ và thời gian khác nhau.
Về nhiệt độ, nhiệt độ không khí đồng đều là điều nổi bật trên toàn khu vực, nhiệt độ có thể thay đổi do ảnh hưởng của độ cao, theo mùa hoặc tác động của biển song nhiệt độ trung bình ít chịu ảnh hưởng của biển. Độ ẩm trung bình không khí cao nhất vào tháng 9 trên 80% và thấp nhất vào tháng 3 xấp xỉ trên 60%. [2, tr. 45]
Thủy văn, tổng diện tích lưu vực sông Mekong là 795.00km2, hàng
năm sông Mekong đổ ra biển khoảng 475 tỉ m3 nước, trong đó sự phân bố các vùng khá chênh lệch [2, tr. 59]
Đất và thảm thực vật cũng phong phú đa dạng. Vùng hạ lưu sông Mekong chủ yếu là vùng nông nghiệp với 80% dân số làm nghề nông, phạm vi và địa bàn thay đổi do thói quen đốt nương làm rẫy của đồng bào miền núi. Đất bao gồm nhiều nhóm như đất ở vùng đất thấp, đất phức hợp ven biển, đất châu thổ, đồng bằng ngập lũ và các loại đất phức hợp có nước ngầm.
Thảm thực vật gồm 2 loại rừng chính là rừng thường xanh và rừng rụng lá, trong đó nhóm rừng thường xanh gồm rừng mưa nhiệt đới, rừng đồi thường xanh, rừng lá kim, rừng đầm lầy nước ngọt và rừng ngập mặn. Bên cạnh đó, các loại rừng ngập lá là rừng rụng lá gió mưa hỗn giao và rừng khô dipterocap. Ngoài ra có các rừng ngày nay trở thành xavan hoặc vùng mọc cỏ. [1, tr. 16]
Sông Mekong như một chiếc cầu nối gắn kết các quốc gia mà nó chảy qua, tạo thành một khu vực kinh tế tự nhiên ở châu Á. Tiểu vùng Mekong rộng 2,32 triệu km2, là khu vực rộng lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng bao gồm cả tài nguyên đất, nước, khí hậu, khoáng sản, thủy sản… trong đó nguồn nước cho nông nghiệp, nguồn thủy sản cho ngư nghiệp, phục vụ cho một bộ phận lớn cư dân trong khu vực, nhất là dân cư ở hạ lưu.
Về mặt xã hội, đây là khu vực đông dân, mật độ dân cư thấp, và mức tăng dân số còn cao. Đặc điểm này sẽ là nhân tố quan trọng tạo tăng trưởng kinh tế cao và liên tục của các nền kinh tế ở tiểu vùng, đồng thời cũng là yếu tố quan trọng thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động ở các nước tiểu vùng Mekong.
Tiểu vùng Mekong là khu vực đa dạng, phong phú về các tộc người và phong tục tập quán, đồng thời còn là một khu vực địa lý in đậm dấu ấn văn hóa tôn giáo đạo Phật. Có thể thấy, hầu hết các quốc gia trong Tiểu vùng sông Mekong mang đậm nét dấu ấn của đạo Phật [2, tr. 17].Về phương diện nào đó, dòng Mekong chính là huyết mạch, sự nối kết của tư tưởng Phật giáo trong quá khứ và hiện tại.
Bảng 1. Tổng hợp diện tích dân số, bình quân GDP đầu người các nước tiểu vùng sông Mekong
Diện tích(km2) | Dân số (Triệu người) | GDP bình quân đầu người (USD) | |
Campuchia | 181.000 | 14,1 | 510 |
Lào | 237.000 | 5,7 | 601 |
Mianma | 677.000 | 54,8 | 255 |
Thái Lan | 513.000 | 65,8 | 3533 |
Việt Nam | 332.000 | 88,78 | 1024 |
Trung Quốc | 633.000 | 97,3 | 1135 |
GMS | 2.600.000 | 323,0 | 1453 |
Có thể bạn quan tâm!
- Hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng sông Mekong giai đoạn 1990 - 2020 - 1
- Hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng sông Mekong giai đoạn 1990 - 2020 - 2
- Nguồn Lực Của Các Nước Trong Tiểu Vùng Sông Mekong
- Hợp Tác Du Lịch Tiểu Vùng Sông Mekong Và Hợp Tác Du Lịch Đa Phương
- Hợp Tác Du Lịch Đa Phương- Chìa Khóa Thúc Đẩy Kinh Tế, Xóa Đói Giảm Nghèo
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
Bảng 1: Số liệu về các nước trong khu vực Sông Mekong (năm 2011) (Nguồn: Tổ chức lương thực của Liên Hiệp Quốc, AQUASTAT 2011, lưu vực sông Mekong)
Theo bảng thống kê trên, có thể thấy bức tranh tổng quát về các nước trong tiểu vùng sông Mekong rất đa dạng và phong phú về các yếu tố tự nhiên và xã hội. Nhìn tổng quát, sự đa dạng và phong phú của các nước trong tiểu vùng được thể hiện qua một số đặc trưng chủ yếu sau:
1. Nằm trong lưu vực sông Mekong, Campuchia là nước có sản phẩm nông nghiệp chính là lúa gạo, chiếm tới 39% diện tích canh tác và đóng góp tới 40% tổng sản phẩm nông nghiệp quốc gia [2, tr. 25]. Theo cơ cấu sản phẩm năm 2013 nông nghiệp chiếm 44%, dịch vụ 43% và công nghiệp chiếm 13% tổng sản phẩm quốc gia [3, tr. 46] .Campuchia sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, cá, cao su, gỗ, đậu rau và thuốc lá. Với diện tích canh tác lớn và dân số tương đối ít nên tiềm năng phát triển nông nghiệp ở đây khá tốt. Tuy vậy do đất đai kém màu mỡ, thiếu đầu tư trong sản xuất nông nghiệp và quản lí tài nguyên nước nên chỉ các diện tích nằm cạnh các vùng đất ngập nước là tương
đối màu mỡ do hàng năm sông Mekong cung cấp phù sa lớn. Các khu vực sản xuất lúa gạo chính chạy dọc theo con sông Tonle Sap và các tỉnh Battambang, Kampong Thum, Kompong Chàm, Prey Vieng và Sray Vieng.
Thủy sản đóng góp một phần quan trọng vào nền kinh tế Campuchia, cá và các sản phẩm từ cá chiếm 40- 80% lượng tiêu thụ và có số lượng khoảng 13kg cá/ người (2005), ngành thủy sản chủ yếu là khai thác tự nhiên thong qua các hoạt động đánh bắt. Biển Hồ, Sông Tonlesap và Sông Mekong là một trong những nguồn cá nước ngọt lớn nhất, sản lượng hàng năm đạt tới 80. 000 tấn. [6, tr. 39]
Bên cạnh lúa gạo và cá, sông Mekong và các vùng ngập nước của nó còn cung cấp các vật dụng cần thiết cho Campuchia như giao thông đường thủy cho các tour du lịch lên quần thể Ankor Wat- di sản thế giới ở tỉnh Siem Reap.
Campuchia có khoảng 14 triệu người (2008), với khoảng hơn 90% người Khmer[2, tr. 46] Sự phát triển của nền kinh tế Campuchia bị chậm lại một cách đáng kể trong thời kỳ 1997-1998, vì khủng hoảng kinh tế trong khu vực, bạo lực và xung đột chính trị. Đầu tư nước ngoài vào du lịch giảm mạnh. Trong năm 1999 năm đầu tiên có được hòa bình thực sự trong vòng 30 năm, đã có những biến đổi trong cải cách kinh tế và tăng trưởng đạt được ở mức 5% [3, tr. 25] Mặc dù bị ngập lụt tràn lan, nhưng GDP vẫn tăng trưởng ở mức 5.0% trong năm 2000, 6.3% trong năm 2001 và 5.2% trong năm 2002 [1, tr. 16]. Du lịch là ngành công nghiệp tăng trưởng mạnh nhất của Campuchia, với số du khách tăng 34% trong năm 2000 và 40% trong năm 2001 trước sự kiện khủng bố 11/09 tại Mỹ [3, tr. 45]. Tuy đạt được những sự tăng trưởng như vậy, nhưng sự phát triển dài hạn của nền kinh tế sau hàng chục năm chiến tranh vẫn là một thách thức to lớn. Dân cư thất học và thiếu các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn nghèo đói gần như chưa có các điều kiện cần thiết của cơ sở hạ tầng. Sự lo ngại về không ổn định chính trị và tệ nạn tham nhũng trong một bộ phận chính quyền làm chán nản các nhà đầu tư
nước ngoài và làm chậm trễ các khoản trợ giúp quốc tế. Chính quyền đang phải giải quyết các vấn đề này với sự hỗ trợ của các tổ chức song phương và đa phương. Campuchia đã gia nhập WTO ngày 13/10/2004.
2. Lào là nước có 88% diện tích nằm trong khu vực sông Mekong và hơn 80% diện tích là đồi núi.[2, tr 14].Nền kinh tế Lào phiến diện và chủ yếu phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 60% tổng sản phẩm quốc gia và chiếm khoảng 85% lực lượng lao động [2, tr. 16] Lào có một tiềm năng thủy điện khổng lồ, cho tới nay Lào mới chỉ khai thác được 2% tiềm năng và tiềm năng này vượt quá yêu cầu năng lượng quốc gia trong một thời gian dài. Lào có diện tích rừng được che phủ lớn nhất châu Á và lượng tài nguyên nước tái tạo trên đầu người cao nhất Châu Á, cũng như các nước khác trong tiểu vùng nước ngọt chiếm 82% trong nông nghiệp [12, tr. 16] .Sông Mekong là nguồn sống của Lào: cung cấp nước cho hầu hết lãnh thổ, là đường giao thông quan trọng và là nguồn lợi thủy sản phong phú.
Lào thực hiện chính sách đổi mới, dỡ bỏ việc kiểm soát tập trung hóa và tăng cường phát triển doanh nghiệp tư nhân vào năm 1986. Kết quả từ một xuất phát điểm thấp đã đạt được những thành quả đáng kinh ngạc. Tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 7% trong các năm 1988 - 2001 ngoại trừ một khoảng thời gian tụt xuống do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu năm 1997 [4, tr. 14]. Mặc dù tốc độ tăng trưởng cao nhưng Lào vẫn còn là một đất nước với cơ sở hạ tầng lạc hậu. Tại đây đã có tuyến đường sắt nối thủ đô Vientiane (Lào) đến khu vực Noong Khai (Thái Lan), hệ thống đường bộ tuy đã được cải tạo nhưng vẫn đi lại khó khăn, hệ thống liên lạc viễn thông trong nước và quốc tế còn giới hạn, điện sinh hoạt chỉ mới có ở một số khu vực đô thị.
Sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng hơn một nửa tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sử dụng 85% lực lượng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận
được sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế khác cũng như từ đầu tư nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng.
3. Lưu vực sông Mekong ở Thái Lan bao trùm toàn bộ vùng Đông Bắc (170.00km2) và một phần vùng phía Bắc chủ yếu là tỉnh Chiang Rai (11.678km2 [12, tr. 13]. Phát triển kinh tế trong vùng chủ yếu là nông nghiệp và thủy sản. Cây trồng quan trọng nhất là lúa gạo và cây trồng khác như thuốc lá, rau và đậu. Tuy sản xuất nông nghiệp bao trùm nhưng công nghiệp chế biến nông – lâm sản vẫn còn yếu kém. Sản lượng thủy sản hàng năm đạt 50.000-
300.000 tấn.[5, tr. 17]
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm 1960 Thái Lan thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần thứ nhất và đến nay là kế hoạch thứ 9 [6, tr. 27].Trong thập niên 1970 Thái Lan thực hiện chính sách "hướng xuất khẩu". ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, châu Âu là những thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và vai trò của nông nghiệp cũng theo đó mà giảm dần.
Hiện nay, Thái Lan là một nước công nghiệp mới. Sau khi đạt tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao nhất thế giới từ 1985 đến 1995, với tốc độ tăng trưởng trung bình 9% mỗi năm [15, tr. 29],sức ép lên việc duy trì đồng baht tại Thái Lan tăng lên, dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, lan rộng ra toàn khu vực Đông Á, bắt buộc chính phủ phải thả nổi tiền tệ. Sau sự ổn định lâu dài ở mức giá 25 baht đổi 1 đô la Mỹ, đồng baht chạm tới mức thấp nhất với 56 baht đổi 1 đô la vào tháng 1 năm 1998, các hợp đồng kinh tế được ký kết bằng 10,2% năm trước [7, tr. 16].
Năm 1998, Thái Lan bắt đầu có dấu hiệu phục hồi với tốc độ tăng trưởng kinh tế là 4,2%, năm 2000 là 4,4%, phần lớn từ những mặt hàng xuất khẩu chính (tăng 20%). Sự tăng trưởng bị rơi vào tình trạng trì trệ (tăng