Thứ hai, năng lực cán bộ Ngân hàng, bao gồm năng lực lãnh đạo, năng lực cán bộ tín dụng và sự phối hợp giữa các bộ phận trong Ngân hàng. Đội ngũ cán bộ chính là mấu chốt của quản lý RRTD. Nếu lãnh đạo có năng lực, họ sẽ có những quyết định kịp thời và đúng đắn về các khoản tín dụng. Sự chỉ đạo, giám sát qui trình quản lý tín dụng của ban lãnh đạo sẽ khiến cán bộ tín dụng có trách nhiệm hơn trong công việc. Nếu Ngân hàng nào có được đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm thu thập thông tin, có kiến thức phân tích tài chính, thẩm định dự án, có đạo đức nghề nghiệp sẽ là yếu tố quan trọng hạn chế được RRTD. Nếu cán bộ tín dụng yếu kém về năng lực, khi tiếp nhận hồ sơ của
khách hàng thì khả
năng phân tích và thẩm định dự
án không đúng về dự
án.
Trong trường hợp này nhân viên tín dụng có thể bị khách hàng lừa gạt, hoặc lựa chọn dự án tài trợ không chính xác, khả năng mất vốn rất cao.
Sự phối hợp nhịp nhàng, có trách nhiệm giữa các bộ phận trong Ngân hàng trong hoạt động tín dụng cũng có ý nghĩa lớn nhằm giảm thiểu RRTD. Bộ phận kinh doanh, quản lý rủi ro, quản lý công nghệ… có sự phối hợp tốt sẽ hỗ trợ việc thẩm định thông tin để có những quyết định tín dụng đúng đắn, phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro của khách hàng.
Thứ ba, độ chính xác và cập nhật thông tin khách hàng trong quan hệ tín dụng. Thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng. Mức độ chính xác và cập nhật thông tin về khách hàng có tính quyết định đến quản lý RRTD. Khi nắm được thông tin chính xác từ phía khách hàng thì sẽ phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, xếp loại khách hàng khách quan, từ đó đưa ra các quyết định kịp thời. Nguồn thông tin đầu ra của hoạt động tín dụng cũng rất quan trọng, phục vụ cho mục đích quản lý RRTD của các cấp lãnh đạo, như: báo cáo dư nợ của khách hàng lớn, báo cáo tình hình nợ quá hạn, báo cáo chất lượng tín
dụng, tình hình tài sản đảm bảo,… làm cơ sở đưa ra các điều chỉnh kịp thời
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Mức Độ Rủi Ro Tín Dụng
- Bài Học Cho Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Chi Nhánh Bãi Cháy
- Thực Trạng Hoạt Động Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Chi Nhánh Bãi Cháy
- Một Số Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Chủ Yếu Tại Ngân Hàng Thương
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
nhằm cải thiện chất lượng của hoạt động tín dụng và giảm thiểu RRTD.
Ngoài ra, do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các Ngân hàng gây ra
trong quá trình thu hút khách hàng làm cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ
sài, chủ quan. Thậm chí có nhiều Ngân hàng liều lĩnh chấp nhận rủi ro cao,
nhằm đạt được mức lợi nhuận cao mà bất chấp những hợp đồng tín dụng không lành mạnh, thiếu an toàn.
1.3.2. Nhân tố khách quan
Các nhân tố mang tính khách quan sẽ ảnh hưởng tới quản lý RRTD của tất cả các Ngân hàng.
Thứ nhất, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội. Các vấn đề về chính sách vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của Ngân hàng thương mại nói riêng. Trong một nền kinh tế, chính phủ ra đưa ra các chính sách tiền tệ và Ngân hàng là đơn vị thực hiện các chính sách đó. Tuy nhiên, những chính sách đó có thể có lợi và bất lợi cho Ngân hàng. Khi mà Ngân hàng nhà nước thay đổi lãi suất huy động, hoặc tỷ lệ dự trữ bắt buộc... nó làm thay đổi mọi kế hoạch của Ngân hàng. Khi mà lãi suất huy động tăng lên làm cho Ngân hàng gặp khó khăn trong việc cho vay. Với mức lãi suất huy động cao thì lãi suất đối với
hoạt động tín dụng cũng phải được đẩy
lên để đảm bảo lợi
nhuận
cho Ngân
hàng. Nhưng
điều
đó cũng đồng nghĩa với việc khách hàng trả lãi và gốc cho
Ngân hàng là rất khó, và rủi ro tín dụng cao lên.
Yếu tố pháp lý cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề rủi ro trong tín dụng. Khi mà các quy định về quy trình trong hoạt động tín dụng không được quy định chặt chẽ và hợp lý. Nó sẽ không chỉ gây khó khăn cho hoạt động tín dụng, mà còn tạo khả năng rủi ro xảy ra. Khi mà quy định hợp lý và chặt chẽ nó sẽ hạn chế được những trường hợp xấu trong hợp đồng tín dụng.
Yếu tố chính trị và xã hội tác động tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Khi mà tình hình chính trị bất ổn làm sáo trộn mọi vấn đề trong xã hội và cả các hoạt động tín dụng tại Ngân hàng. Tình trạng này làm cho các doanh nghiệp sản xuất bị gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, như vậy khả năng thanh toán
cho Ngân hàng là không thể. Vì vậy rủi ro tín dụng khi mà tình hình chính trị bất
ổn là rất cao.
Ngoài các yếu tố trên, còn có các yếu tố tự nhiên như thiên tai, dịch bệnh, bão lũ... Đây là những yếu tố bất khả kháng, yếu tố này không thể lường trước được. Bản thân các doanh nghiệp vay vốn cũng không thề dự tính được. Trong các năm gần đây chúng ta đều được chứng kiến tai họa xảy đến đối với các doanh nghiệp chăn nuôi, khi mà vốn liếng của họ bị thiêu huỷ hết do dịch cúm gia cầm. Rất nhiều gia đình vay vốn Ngân hàng để chăn nuôi nhưng nay bị mất trắng. Họ gần như không có khả năng thanh toán nợ cho Ngân hàng. Đồng nghĩa với điều đó là việc Ngân hàng mất vốn hay rủi ro tín dụng xảy ra.
Thứ hai, ảnh hưởng từ phía khách hàng. Nhân tố không lành mạnh từ phía khách hàng là việc khách hàng lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích, trốn tránh trách nhiệm uỷ quyền và bảo lãnh. Khi mà khách hàng lừa đảo họ lợi dụng các điểm yếu và kẽ hở của Ngân hàng. Họ lập các phương án kinh doanh giả, cùng các giấy tờ thế chấp giả mạo hoặc đi vay ở nhiều Ngân hàng với cùng một bộ hồ sơ. Đối với trường hợp bảo lãnh và uỷ quyền xảy ra chủ yếu đối với các Công ty lớn. Một số Công ty, Công ty lớn đứng ra bảo lãnh uỷ quyền cho các
chi nhánh trực
thuộc
thực hiện
vay vốn của
Ngân hàng để tránh sự kiểm tra
giám sát của Ngân hàng vào hoạt động và kinh doanh. Tuy nhiên khi đơn vị chi
nhánh không trả được nghĩa vụ của mình.
nợ thì đơn
vị bảo
lãnh không chịu
đứng
ra thực
hiện
Thứ
ba,
đối thủ
cạnh tranh.
Đối
với
các doanh nghiệp
kinh nghiệm và
năng lực kinh doanh đang còn ờ trình độ thấp, thì hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Khi được vay vốn kinh doanh thì dự án này sẽ gặp nhiều khó khăn, khả năng xảy ra rủi ro là rất cao. Như vậy rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng sẽ rất lớn, v.v…
1.4. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của các Ngân hàng
1.4.1. Các nguyên tắc BASEL về quản lý rủi ro tín dụng
Trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc Basel có một số điểm cơ bản:
+ Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia.
+ Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.
+ Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý rủi ro tín dụng.
Tại Basel III, các nhà quản lý Ngân hàng các nước thuộc Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng đã đồng thuận một quy định mới có tính lịch sử về quản lý Ngân hàng nhằm xây dựng hệ thống tài chính toàn cầu ổn định hơn.
Theo quy định mới, gọi là Hiệp định Basel III, buộc các Ngân hàng có hoạt động quốc tế phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 7%, cao hơn nhiều lần so với tiêu chuẩn 2% hiện hành và cao hơn cả tỷ lệ 4% mà các Ngân hàng Mỹ áp dụng sau khi kiểm tra sức chịu đựng của Ngân hàng vào năm 2009.
Quy định này được cho là sẽ giúp hệ thống Ngân hàng toàn cầu được kết nối chặt chẽ với nhau tránh tích tụ nợ và rủi ro quá mức từng làm đảo lộn thị
trường
tài chính Wall Street và gây chấn
động
nền
kinh tế Thế giới
vừa
qua,
buộc các chính phủ phải dùng tiền thuế của người dân để cứu nguy các tổ chức tài chính.
Ngân hàng nào không xây dựng quỹ dự phòng hoặc tỷ lệ dự trữ không đạt mức tối thiểu mà Basel III quy định, cơ quan quản lý sẽ bắt buộc họ phải trích lợi nhuận để gia tăng vốn, giảm nguồn tiền dùng để chia cổ tức hay thưởng cho giới quản lý. Một số người tin rằng, quy định mới có thể buộc nhiều Ngân hàng phải thu hẹp dư nợ tín dụng hoặc bán bớt tài sản để cải thiện tình trạng vốn.
Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng của Uỷ ban giám sát Ngân hàng
Basel: Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp; Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý; Duy trì một quy trình quản lý, đánh giá và kiểm soát
tín dụng dụng
có hiệu
quả; Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín
1.4.2. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của một số ngân hàng
1.4.2.1 Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Trong thời gian gần đây, đã có một sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu tổ chức bộ máy và quy trình cấp tín dụng của một số Ngân hàng Việt Nam. Những thay đổi cơ bản trong mô hình quản lý rủi ro tín dụng đang được các Ngân hàng này áp dụng là:
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng
TMCP Ngoại Thương Việt Nam (VCB) đã thực hiện hoàn thiện bộ máy quản lý rủi ro tín dụng từ Hội sở chính đến các chi nhánh với sự phân cấp rõ ràng về mức phán quyết, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận, đồng thời xây dựng các chính sách quản lý rủi ro tín dụng, chính sách phân bổ tín dụng, chính sách khách hàng, xây dựng danh mục đầu tư …chi tiết, rõ rang, thống nhất.
Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB) chuyển đổi mô hình quản lý theo chiều ngang sang mô hình theo chiều dọc. Theo mô hình này, các nghiệp vụ kinh doanh chính, trong đó có hoạt động cấp tín dụng, được quản lý tập trung tại Hội sở chính, các chi nhánh chủ yếu làm chức năng bán hàng.
Phân tách bộ phận tín dụng thành các bộ phận chuyên môn khác nhau như quan hệ khách hàng (tập trung chủ yếu vào hoạt động tiếp thị, tiếp xúc khách hàng, khởi tạo tín dụng), bộ phận quản lý rủi ro tín dụng (thực hiện thẩm định tín dụng độc lập và ra các ý kiến về cấp tín dụng cũng như giám sát quá trình thực hiện các quyết định tín dụng của bộ phận quan hệ khách hàng), bộ phận tác nghiệp (thực hiện lưu trữ hồ sơ, nhập hệ thống máy tính và quản lý khoản vay, v.v…). Các Ngân hàng thương mại cổ phần như ACB, VIB, VPB, SCB, v.v… đã
và đang tiến hành quá trình cơ cấu lại bộ máy kinh doanh tín dụng theo hướng
này để phân định rõ chức năng đề xuất và thẩm định tín dụng nhằm đảm bảo tính khách quan trong hoạt động cấp tín dụng. Với sự tư vấn của Ngân hàng ING
(Hà Lan), Vietcombank đã triển khai mô hình quản lý tín dụng mới trong toàn hệ
thống từ tháng 7/2006. Các Ngân hàng thương mại quốc doanh khác như BIDV,
Vietinbank cũng đang tiến
hành chuyển
đổi
theo mô hình này. Tuy nhiên, quá
trình này đang diễn
ra một
cách khó khăn và theo các chuyên gia thì vẫn
còn
một chặng đường dài nữa các Ngân hàng thương mại Việt Nam mới đạt được một mô hình quản lý rủi ro tín dụng hiện đại theo đúng nghĩa. Trước hết, khó
khăn lớn nhất xuất phát từ yếu tố con người bởi
ảnh hưởng đến quyền hạn của các cán bộ có
sự thay đổi mô hình tổ chức đã liên quan đến quá trình cấp tín
dụng. Thật khó khăn khi phải thay đổi, phải tiếp nhận cái mới, đặc biệt khi mà sự thay đổi đó ảnh hưởng đến quyền lực mà trước đây người ta có được. Giờ
đây, một quyết định tín dụng không phụ thuộc vào một cá nhân mà là sự đồng
thuận của các lãnh đạo các bộ phận chức năng có vai trò độc lập trong quá trình tác nghiệp. Đây là một lực cản không nhỏ trong quá trình triển khai mô hình này trên thực tế.
Khó khăn thứ hai có thể kể đến là môi trường thông tin, trong đó tính minh bạch, chính xác, rõ ràng của các thông tin và độ tin cậy của các cơ quan cung cấp tại Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
của Ngân hàng Nhà nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan
trọng trong cung cấp thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung cấp các thông tin cảnh báo…, góp phần quan trọng cho
sự phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam vì mục tiêu an toàn, hiệu quả
nhưng những đòi hỏi về thông tin của các Ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin về báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán nên độ chính xác của các báo cáo chưa cao. Việc tìm kiếm thông tin cực kỳ khó khăn và tình trạng thông tin
bất cân xứng
vẫn là một tồn tại
chưa thể khắc
phục được trên thị trường
tài
chính Việt Nam. Quy trình cấp tín dụng mới lại yêu cầu tách bạch chức năng bán hàng và chức năng thẩm định tín dụng, do đó, cán bộ thẩm định không tiếp xúc khách hàng (để đảm bảo tính khách quan) nên phải có đầy đủ các thông tin để có thể đưa ra các quyết định tín dụng đúng đắn và hợp lý.
Khi triển khai mô hình mới, sự phân tách bộ phận quan hệ khách hàng,
quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ đã tạo nên những khối chức năng độc lập
nhưng
lại
chưa
đảm
bảo
mối
dây liên kết
chặt
chẽ,
đôi khi còn xuất
hiện tị
hiềm, cản trở nhau trong tác nghiệp. Trách nhiệm của các bộ phận tham gia vào hoạt động tín dụng chưa thật rõ ràng, đặc biệt là trách nhiệm pháp lý trong điều kiện tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế vẫn đang tồn tại khá phổ biến, đã
dẫn đến sự
e ngại trong các quyết định cấp tín dụng và làm
ảnh hưởng đến
không chỉ hoạt động của bản thân Ngân hàng đó mà còn đến cả nền kinh tế bởi khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của công chúng sẽ trở nên khó khăn hơn và mất nhiều thời gian hơn. Sự hỗ trợ của hệ thống thông tin tín dụng cũng như khả năng tiếp cận khách hàng và cung cấp thông tin cần thiết của bộ phận quan hệ khách hàng chưa đáp ứng được các yêu cầu chính xác và giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng, do đó, những lo ngại của bộ phận quản lý rủi ro tín dụng trong các quyết định rủi ro gia tăng.
Mặc dù có nhiều trở ngại trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng nhưng không thể phủ nhận được những ưu điểm của mô hình mới này mang lại trong quản lý rủi ro bởi đã thực hiện sự tách bạch giữa bộ phận tiếp thị và bộ phận thẩm định giúp cho các quyết định cho vay mang tính khách quan hơn, cũng như nhờ sự chuyên môn hóa sâu hơn theo chức năng mà việc thực hiện phân tích và phản biện tín dụng sâu sắc và chính xác hơn, giúp nhận dạng các rủi ro tiềm năng và có các biện pháp phòng ngừa thích hợp… Thêm vào đó, chính sự giám sát của bộ phận quản lý rủi ro đối với quan hệ khách hàng trong quá trình thực hiện các quyết định cấp tín dụng đã tạo nên cơ chế kiểm tra và giám sát liên tục, song song trong quá trình cho vay, phát hiện và giảm thiểu được những rủi ro sau khi
cho vay mà cơ chế kiểm tra nội bộ của các Ngân hàng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.
Tại VIB, cơ cấu quản lý được xác định rõ ràng giữa Hội đồng Quản lý (HĐQT) và Ban điều hành, trong đó HĐQT xác định chiến lược và Ban điều hành
là người thực thi chiến lược, nếu không “rõ ràng” điều này sẽ dẫn đến mâu
thuẫn về quyền lợi. Bên cạnh đó, những ủy ban độc lập như Ủy ban tín dụng
độc lập, được Chủ tịch HĐQT trao quyền và có thành viên HĐQT tham gia,
không chỉ giúp HĐQT nắm vững được tình hình thực tế về tình hình tín dụng mà còn đảm bảo tính minh bạch, chất lượng tín dụng tại VIB
Trên thực tế, quản lý rủi ro tại Việt Nam thường phải đối mặt với vấn đề có quá ít hoặc quá nhiều dữ liệu nhưng không phù hợp cho quá trình phân tích
đánh giá cơ hội hoặc dự phòng rủi ro. Để khắc phục vấn đề này, tại VIB có
những phòng ban chuyên trách, mô hình đồng nhất, nhất quán từ các đơn vị kinh doanh đến bộ phận hỗ trợ. Mô hình 3 tầng lớp bảo vệ (Đơn vị kinh doanh
Đơn vị quản lý Kiểm toán nội bộ) giúp VIB tăng cường vài trò quản lý và kiểm tra hoạt động của các đơn vị kinh doanh nói riêng và của toàn hệ thống
nói chung, đồng thời phòng ngừa lỗ hổng do các hình thức rủi ro gây ra như:
chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố. Hiện tại, VIB đang dần dần thay đổi văn hóa của quản lý rủi ro từ “kiểm soát” sang “hợp tác” mà không ảnh hưởng đến chất lượng rủi ro tín dụng [Hội thảo Banking Việt Nam 2019 “Đẩy mạnh đổi mới công nghệ Ngân hàng; Nâng cao năng lực quản lý, điều hành; Phát triển mạnh các dịch vụ Ngân hàng hiện đại”.
Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của HD Bank
HDBank là một trong những ngân hàng đầu tiên đã công bố thực hiện
thành công hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ gồm 9 bộ chỉ tiêu xếp hạng dành cho 4 đối tượng khách hàng: định chế tài chính, tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh và cá nhân. Việc ứng dụng hệ thống này sẽ giúp HDBank đánh giá được chất lượng tín dụng, phân nhóm khách hàng cũng như lượng hóa tín dụng, phân loại nợ, trích