sản phẩm dịch vụ quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc...
Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật thương mại:
+ Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ thuật mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
+ Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
+ Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế. Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán:
+ Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính.
+ Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên; khả năng tiền mặt giảm; tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có lãi. Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ được kéo dài; hoạt động lỗ, v.v…
+ Những dấu hiệu phi tài chính khác: những vấn đề về đạo đức, dáng vẻ của nhà kinh doanh; sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; kho lưu trữ hàng hoá quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu.
Phân tích và đo lường rủi ro tín dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Của Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại Đối Với Nền Kinh Tế
- Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Các Ngân Hàng
- Bài Học Cho Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Chi Nhánh Bãi Cháy
- Thực Trạng Hoạt Động Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Chi Nhánh Bãi Cháy
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan, song Ngân hàng phải quản lí rủi ro tín
dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, Ngân hàng cụ thể hóa thành những dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:
Nợ quá hạn và nợ xấu:
+ Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn thanh toán.
+ Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5 theo quy định
hiện hành của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
+ Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Các quan điểm khác nhau, các tính toán khác nhau về kì hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.
Thứ nhất, do kì hạn nợ không đúng. Nhiều cán bộ Ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù hợp với chu kì thu nhập của người vay. Khi đến hạn người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm khoản “phụ phí” để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt.
Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ. Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ để làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che giấu với Ngân hàng cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách
hàng và nhân viên Ngân hàng thỏa thuận vay khoản mới để
trả
khoản nợ
cũ.
Nhân viên Ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với các khoản nợ mà chắc chắn người vay không trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay. Rất nhiều các khoản vay khó đòi không thể
thu hồi
bằng
phát mại
tài sản
(doanh nghiệp
nhà nước,
người
nghèo, tài sản
không rõ ràng, v.v…). Những khoản cho vay này hầu hết là cho vay theo chỉ thị của Chính phủ. Khi chính phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của Ngân hàng, trở thành tài sản ảo. Việc xử lí các khoản nợ này là rất phức tạp. Nhiều Ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh (khi được Chính phủ đồng ý). Tuy nhiên chúng
thực sự
đe dọa thu nhập của các Ngân hàng nếu chính phủ
không tìm được
nguồn bù đắp.
Các chỉ tiêu khác: Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lí Ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản,
lập hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…
+ Các khoản cho vay có vấn đề: mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn song trong quá trình theo dõi, nhân viên Ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vẫn đề được xây dựng dựa trên quy định của Ngân hàng.
+ Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng… Ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao, rủi ro tín dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà Ngân hàng xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn.
+ Mất tính ổn định vĩ mô: Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do mất ổn định vĩ mô được Ngân hàng xem là một nội dung quan trọng phản ánh rủi ro tín dụng.
+ Tính kém đa dạng của tín dụng: Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu Ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hóa.
Kiểm soát rủi ro tín dụng
Khái niệm về kiểm soát rủi ro tín dụng: Kiểm soát rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược và những quá trình nhằm
chủ động
điều
khiển,
biến
đổi
rủi
ro tín dụng tại một Ngân hàng bằng cách
kiểm soát tần suất, mức độ rủi ro; Đặc điểm của kiểm soát rủi ro tín dụng: là
những hoạt động nhằm giảm thiểu rủi ro trước khi rủi ro xảy ra.
Các phương thức kiểm soát rủi ro tín dụng:
+ Né tránh rủi ro: là việc né tránh những đối tượng, những hoạt động hoặc
những nguyên nhân làm phát sinh tổn thất, mất mát có thể xảy ra. Thông qua
hoạt động thẩm định, xếp loại và sàng lọc khách hàng: đối với những khách hàng đã thấy rõ ràng là có chứa rủi ro lớn, không phù hợp với chính sách cho vay thì biện pháp tốt nhất là né tránh, từ chối cho vay.
+ Ngăn ngừa rủi ro: bằng cách loại bỏ những nguyên nhân gây ra rủi ro,
đối với những khoản vay
mà yếu tố rủi ro được xác định nhưng có thể
khắc
phục được thì Ngân hàng có thể xem xét, cân nhắc để cho vay và thực hiện việc giám sát nhằm không xảy ra các nguy cơ gây ra rủi ro như: sử dụng vốn sai mục đích, không đảm bảo vốn tự có tham gia phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư, tiến độ thực hiện và nguồn thanh toán, tuân thủ việc thực hiện hợp đồng với đối tác…
+ Giảm thiểu tổn thất do rủi ro cho vay gây ra: là biện pháp nhằm làm giảm mức độ thiệt hại do rủi ro mang lại nếu nó xảy ra. Các biện pháp giảm thiểu tổn thất: Áp dụng sản phẩm, quy trình cho vay phù hợp; Áp dụng các điều khoản trong nội dung hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay; Định giá khoản vay có phần bù rủi ro; Áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay; Trích lập dự phòng rủi ro.
+ Chuyển giao rủi ro: là việc sắp xếp để một vài đối tượng gánh chịu
hoàn toàn hay một phần tổn thất xảy ra. Có thể chuyển giao cho công ty bảo hiểm, người kinh doanh rủi ro hoặc cho ngân sách nhà nước. Các cách thức chuyển giao rủi ro: chuyển giao rủi ro cho người kinh doanh rủi ro (các Công ty bảo hiểm); chuyển giao rủi ro cho bên mua nợ; chuyển giao rủi ro cho ngân sách Nhà nước (Đối với những khoản vay theo chỉ định của Chính phủ); sử dụng công cụ phát sinh; chứng khoán hóa khoản vay.
+ Đa dạng hóa: thực hiện cho vay với nhiều loại sản phẩm, nhiều khách hàng, không tập trung cho vay quá nhiều vào một số ít ngành nghề, lĩnh vực, hình thức cấp vốn, một ít khách hàng hoặc nhóm khách hàng nhằm mục đích phân tán rủi ro. Bản chất của đa dạng hóa là hạn chế rủi ro đặc thù, rủi ro dao động phụ thuộc theo một vài công ty, một ngành công nghiệp, một lĩnh vực hoạt động…
Tài trợ rủi ro tín dụng
Tài trợ rủi ro tín dụng là việc Ngân hàng dùng các nguồn tài chính trong và ngoài Ngân hàng bù đắp tổn thất các khoản cho vay khi rủi ro xảy ra. Nợ rủi ro sau khi được xử lý sẽ được thu hồi hoặc được chuyển qua hạch toán ngoại bảng và tiếp tục theo dõi có biện pháp để thu hồi nợ đầy đủ theo hợp đồng đã ký, cam kết đã thỏa thuận với khách hàng:
Nguồn từ Ngân hàng: (i) Từ quỹ dự phòng rủi ro đã trích (bao gồm dự
phòng chung và dự phòng cụ thể); (ii) Trích thẳng trực tiếp vào chi phí hoặc lợi nhuận của Ngân hàng.
Nguồn từ
bên ngoài Ngân hàng: (i) Phương án thu hồi nợ
xấu; (ii) Từ
thanh lý doanh nghiệp; (iii) Từ bán nợ. (iv) Từ nguồn đền bù của nhà kinh doanh rủi ro, bảo hiểm để bù.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá quản lý rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro tín dụng
Tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
=
Tổng dư nợ cho vay
x100%
Tỷ lệ nợ nợ xấu
Dư nợ xấu
=
Tổng dư nợ
x100%
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá công cụ quản lý rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại
Bộ máy quản lý rủi ro tín dụng
Tùy theo quy mô hoạt động, hình thức sở hữu và chiến lược hoạt động, mỗi NH có một mô hình tổ chức riêng. Các Ngân hàng lớn thường có nhiều chi nhánh, sở hữu nhiều công ty con, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Vì thế, bộ máy tổ chức của các NH này thường mang tính chuyên môn hóa cao (Có các phòng nghiệp vụ chuyên sâu như: Tín dụng công ty, tín dụng tiêu dùng, tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, phòng thẩm định, v.v...).
Các ngân hàng nhỏ thường có ít, thậm chí không có chi nhánh, hoạt động trong phạm vi địa phương, nghiệp vụ kinh doanh kém đa dạng. Khác với Ngân hàng lớn, bộ máy tổ chức của loại hình này cũng đơn giản hơn. Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, mỗi NH cần căn cứ vào những đặc điểm,
điều kiện riêng của thích hợp.
mình và môi trường kinh doanh để tổ chức bộ máy quản lý
Dựa vào bộ
máy quản lý, ta có thể
đánh giá được mức độ
tăng cường
quản lý rủi ro tín dụng. Trong thời gian gần đây, đã có một sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu tổ chức bộ máy và quy trình cấp tín dụng của một số Ngân hàng Việt Nam. Giờ đây, đến một số Ngân hàng (Vietcombank, ACB, v.v…), chúng ta không còn thấy Phòng tín dụng, là bộ phận trước đây tiếp xúc khách hàng và tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn để xem xét quyết định cho vay mà thay vào đó là Phòng Quan hệ khách hàng, đầu mối tiếp xúc và tiếp nhận đầy đủ các yêu cầu của khách hàng để các bộ phận chức năng xem xét phê duyệt.
Công tác thẩm định tín dụng
Trong thẩm định tín dụng nói chung các Ngân hàng thường dựa vào các tiêu chuẩn nhất định để đánh giá khách hàng trước khi cho vay. Sau đây là hai cách thẩm định mà các Ngân hàng thường sử dụng để đánh giá khách hàng:
Thẩm
định
theo tiêu chuẩn
5C: Character (tính cách của
người
đi vay);
Capacity (năng lực hoặc khả năng vay và trả nợ của khách hàng); Capital (vốn); Collateral (tài sản cầm cố, tài sản thế chấp); Conditions (điều kiện)
Thẩm định theo tiêu chuẩn 5P: Purpose (mục đích); Payment (thanh toán); Protection (bảo vệ hay bảo hộ); Policy (chính sách); Pricing (định giá)
Kết quả phân loại nợ
Kết quả xếp hạng, chấm điểm tín dụng khách hàng là kết quả đánh giá tổng hợp mô hình thống kê tin học rất nhiều chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, cũng như lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng trong quá trình hoạt động lâu dài, kết hợp phương pháp phân tích, đánh giá của các chuyên gia phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
Tình hình xử lý nợ xấu
Nhằm đánh giá mức độ tăng cường quản lý tín dụng người ta thường dựa vào tình hình xử lý nợ xấu tại Ngân hàng qua các năm. Qua đó, ta có thể đánh giá được mức độ quản lý tín dụng tại Ngân hàng.
Kết quả trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro tín dụng được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt
động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với các khoản tín dụng (nợ) của Ngân hàng.
Trên bảng cân đối kế toán của Ngân hàng, dự phòng là một khoản mục thuộc tài sản và làm giảm giá trị của tài sản Có, nhằm phản ánh sự suy giảm của tài sản trước những tổn thất có khả năng xảy ra. Trong khi đó, trong bảng kết quả kinh doanh, dự phòng là một khoản chi phí phi tiền mặt, được ghi nhận làm giảm lợi nhuận/vốn chủ sở hữu của Ngân hàng.
Dự phòng rủi ro tín dụng gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Dự phòng cụ thể được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối
với từng khoản nợ
cụ thể. Dự
phòng chung được trích lập để
dự phòng cho
những tổn thất có thể xảy ra, nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng
cụ thể. Theo quy định tại Thông tư 02/2015/TTNHNN ngày 21/01/2015 của
Ngân hàng Nhà nước, dự phòng chung được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4, trừ Tiền gửi và cho vay liên Ngân hàng.
Dự phòng cụ thể = Tỷ lệ trích lập x (Số dư khoản nợ Giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo).
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Công tác quản lý rủi ro tín dụng tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào các nhân tố chủ quan từ chính các NHTM, đó là: nhận thức, năng lực cán bộ, nguồn thông tin, sự phối hợp giữa các bộ phận trong Ngân hàng, v.v…
Thứ nhất, nhận thức về sự cần thiết quản lý rủi ro tín dụng, chủ trương, chính sách từ phía Ngân hàng.
Lợi nhuận của Ngân hàng chủ yếu thu được từ hoạt động tín dụng. Đó là nguồn thu chính của các Ngân hàng, do đó việc tăng lợi nhuận tức là phải tăng quy mô của hoạt động tín dụng, đồng nghĩa với rủi ro tín dụng tăng lên. Càng mở rộng tín dụng thì việc giám sát và kiểm tra các hợp đồng tín dụng càng có nguy cơ yếu kém đi. Việc giám sát của các cán bộ tín dụng đối với các hợp đồng tín dụng lơi lỏng, và việc tuân thủ các quy trình tín dụng cũng bị lơ là. Vì vậy, cần
có nhận thức quản lý RRTD là một quá trình liên tục được thực hiện từ chủ
trương, chính sách với mọi cấp độ để duy trì khả năng tồn tại và phát triển bền vững của Ngân hàng. Khi Ngân hàng có chủ trương phù hợp với từng thời kỳ, theo đó là các chính sách khách hàng đúng đắn sẽ tạo thuận lợi cho cán bộ tín dụng theo dõi, giám sát các khoản tín dụng.
Quy trình tín dụng đối với các Ngân hàng là một bí mật riêng. Quy trình tín dụng chưa chặt chẽ hoặc quá cụ thể, quá linh hoạt điều có thể là nhân tố gây ra rủi ro tín dụng. Những vấn đề nổi cộm hiện nay trong các quy trình tín dụng là đánh giá lại giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố.