Hệ Thống Chỉ Tiêu Môi Trường Dung Để Đánh Giá Nhanh Tính Bền Vững Của Điểm Du Lịch 106079


đất”, thuật ngữ PTBV và tính bền vững được mở rộng thêm: “Phát triển bền vững là sự phát triển nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong khuôn khổ đảm bảo của các hệ thống sinh thái. Tính bền vững là một đặc điểm đặc trưng của một quá trình hoặc một trạng thái cố thể duy trì mãi mãi. Kể từ đây khái niệm về PTBV tiếp tục được nghiên cứu kỹ lưỡng trong chương trình nghị sự 21, là chương trình hành động về PTBV chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21, được thông qua tại hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992.

Hiện nay một trong những khái niệm “phát triển bền vững” được chấp nhận rộng rãi đó là khái niệm được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1980, trong Chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc đề xuất, cùng với sự trợ giúp của UNESCO và FAO: “Chiến lược này dự đoán rằng phát triển bền vững cần phải tính đến những yếu tố xã hội và sinh thái cũng như những yếu tố kinh tế, cơ sở tài nguyên sinh học và không sinh học và cũng phải tính đến những lợi ích và phiền phức của những giải pháp thay thế ngắn hạn và dài hạn”[20]. Ngoài ra phải kể đến khái niệm “phát triển bền vững” trong báo cáo Brundtland năm 1987, theo đó: “Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của hiện tại mà không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo và tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động và thực vật. Nhưng ở một mức độ nào đó, nó cũng hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giầu và nước nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững”.

Sau này, quan niệm về phát triển bền vững đã được các nhà khoa học trên thế giới phát triển và bổ sung thêm. Tại Hội nghị về môi trường, toàn cầu RIO_92 và RIO_92+5, khái niệm về phát triển bền vững được thảo luận, bổ sung và mở rộng theo đó “Phát triển bền vững được hình thành trong sự hài hoà, đan xen va thoả hiệp của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hoá - xã hội”. Dưới quan điểm phát triển bền vững


này, Jacobs và Saller (1992) cho rằng phát triển bền vững là kết quả tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn nhau của 3 hệ thống là: hệ kinh tế, hệ tự nhiên và hệ xã hội.

Tại Việt Nam, khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thâp niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở Việt Nam khá muộn nhưng trong những năm gần đây, lý luận về phát triển bền vững cũng được các nhà khoa học, nhà lý luận quan tâm nghiên cứu. Các vấn đề về phát triển bền vững ở nước ta còn được cụ thể hoá trong các văn bản quan trọng. Trong đó phải kể đến là chỉ thị số 36/TC ngày 25/6/1998 của Bộ Chính Trị Ban chấp hành Trưng ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định mục tiêu và các quan điểm cơ bản cho phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động môi trường [5]. Đồng thời trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) cũng đã chính thức đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững [6]. Phát triển bền vững phải đạt được các nội dung căn bản sau đây: Góp phần bảo vệ môi sinh, môi cảnh; Xây dựng, phát triển kinh tế tăng trưởng không ngừng; Đảm bảo công bằng xã hội; Không xâm hại đến lợi ích nhiều mặt của các thế hệ trước mắt cũng như lâu dài; Tạo tiền đề phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội.

c. Khái niệm phát triển du lịch bền vững

Trong tiến trình phát triển, mọi quốc gia đều đặt mục tiêu phát triển bền vững cho mọi chương trình hành động của mình. Phát triển bền vững là mục tiêu và biện pháp của các cá nhân và tổ chức khi tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra sự phát triển để đáp ứng cho nhu cầu hiện tại mà không giảm bớt đi khả năng của các thế hệ mai sau trong việc đáp ứng cho nhu cầu của họ. Điều 4 Luật Du lịch đã nói rõ: “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai” [40, tr. 11].

Phát triển du lịch bền vững (Sustainable Tourism) được Tổ chức Du lịch thế giới (United National World Tourist Organization, viết tắt là UNWTO) định nghĩa như sau: “Sự phát triển bền vững của ngành du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và của địa phương du lịch, đồng thời bảo vệ và thúc đẩy cơ hội phát triển cho tương lai. Sự quản lý của ngành phải cân bằng và đáp ứng được nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ mà vẫn duy trì được các giá trị của sinh thái, văn hóa và môi sinh”. Hoặc: “Du lịch bền vững là


các hình thức du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Du lịch khả thi về kinh tế nhưng không phá hủy tài nguyên mà tương lai của du lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường tự nhiên và kết cấu xã hội của cộng đồng địa phương” [3, tr. 237].

Tổ chức du lịch thế giới (WTO, 2002) định nghĩa “phát triển bền vững trong du lịch là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Sự phát triển này quan tâm đến lợi ích kinh tế, xã hội mang tính lâu dài trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai; cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương” [77].

1.1.1.2. Các tiêu chí của phát triển du lịch bền vững

- Các tiêu chí về kinh tế: Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục và ổn định lâu dài của các chỉ tiêu kinh tế du lịch bao gồm:

+ Chỉ tiêu khách du lịch: Bao gồm: số lượng tuyệt đối về khách, số ngày lưu trú trung bình, số khách quay trở lại, khả năng thanh toán, mức độ hài lòng của khách…

+ Chỉ tiêu thu nhập và tổng sản phẩm quốc nội ngành du lịch (GDP du lịch): Thu nhập du lịch bao gồm tất cả các khoản thu được do khách du lịch chi trả cho dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển khách du lịch, các dịch vụ vui chơi giải trí, mua săm hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ sung khác. Tỷ trọng càng cao, ổn định và tăng trưởng theo thời gian thì ngành du lịch càng phát triển gần với mục tiêu phát triển bền vững.

+ Chỉ tiêu hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch (bao gồm các cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, các phương tiện vận chuyển, văn phòng lữ hành…) là thước đo phản ánh trình độ phát triển của du lịch.

+ Chỉ tiêu nguồn nhân lực trong du lịch: Chất lượng đội ngũ lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và cuối cùng là ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, sự tăng trưởng của các chỉ tiêu du lịch khác.

Theo xu thế phát triển hiện nay ở trong nước và trên thế giới, các chỉ tiêu kinh tế được phát triển liên tục trong nhiều năm ở mức trung bình khoảng 7 – 10%/ năm thì được


coi là phát triển bền vững. Tuy nhiên tùy thuộc vào trình độ phát triển và mức khởi điểm của các chỉ tiêu kinh tế ở mỗi nước, mỗi địa phương mà mức độ tăng trưởng sẽ cao hay thấp khác nhau được lựa chọn để đánh giá tính bền vững.

- Các tiêu chí về tài nguyên môi trường: Tiêu chí này bao gồm các chỉ tiêu sau:

+ Số lượng các khu, điểm, du lịch được đầu tư tôn tạo và bảo tồn: Đây là hạt nhân trong phát triển du lịch, trong dó tài nguyên du lịch đóng vai trò trung tâm. Thực tế cho thấy tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc thì sức hấp dẫn và hiệu quả du lịch càng cao. Theo tổ chức du lịch thế giới, nếu tỷ lệ này vượt quá 50% thì hoạt động du lịch được xem là trong trạng thái phát triển bền vững.

+ Áp lực lên môi trường - tài nguyên tại các khu, điểm du lịch: Một trong những mục tiêu mà phát triển bền vững hướng tới là bảo vệ môi trường. Việc phát triển quá nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng đến công tác đánh giá và quản lý tác động đến môi trường tại khu vực phát triển du lịch sẽ là nguyên nhân chính gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường và kết quả là phát triển du lịch thiếu bền vững

+ Mức độ đóng góp từ thu nhập du lịch cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên và bảo vệ môi trường: Việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ du lịch không chỉ mang lại nguồn thu cho ngành du lịch mà còn đóng góp cho cộng đồng địa phương, cơ quan chủ quản tài nguyên du lịch. Đây là tiêu chí không thể thiếu trong việc đánh giá sự phát triển du lịch bền vững về mặt tài nguyên - môi trường.

- Các tiêu chí về xã hội

+ Những đóng góp cụ thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội: Tạo công ăn việc làm cho người lao động, tham gia xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự công bằng trong phát triển, góp phần gỗ trợ các ngành kinh tế khác cùng phát triển.

+ Tác động đến xã hội từ các hoạt động du lịch: Du lịch là một ngành mang tính xã hội hóa cao, vì vậy các hoạt động phát triển du lịch không tránh khỏi những tác động mạnh mẽ lên lên nhiều mặt của đời sống xã hội trong đó bao gồm cả 2 mặt tích cực và tiêu cực. Để đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững, vấn đề đặt ra ở đây là cần phát huy hơn nưa những mặt tích cực và kiểm soát, hạn chế những tiêu cực.


+ Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương đối với các hoạt động du lịch: Để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần có sự ủng hộ, hợp tác của cộng đồng địa phương. Họ chính là người bảo vệ những tài nguyên và môi trường du lịch. Mức độ hài lòng của cộng đồng dân cư địa phương đối với các hoạt động du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của du lịch trong quá trình phát triển.

Bảng 1.1. Hệ thống chỉ tiêu môi trường dung để đánh giá nhanh tính bền vững của điểm du lịch


TT

Chỉ tiêu

Cách xác định

1

Bộ chỉ tiêu đáp

ứng nhu cầu của khách du lịch

- Tỷ lệ % số khách trở lại/tổng số khách

- Số ngày lưu trú bình quân/đầu du khách

- Tỷ lệ % rủi do về sức khoẻ do du lịch/tổng số khách

2

Bộ chỉ tiêu đánh giá tác động của du lịch lên phân hệ sinh thái tự nhiên

- % chất thải được thu gom và xử lý

- Lượng điện tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)

- % diện tích cảnh quan bị xuống cấp do sử dụng/tổng diện tích sử dụng do du lịch

- % số công trình kiến trúc không phù hợp với kiến trúc bản địa (hoặc cảnh quan)/tổng số công trình.

- Mức độ tiêu thị các sản phẩm động, thực vật quý hiếm (phổ biến hiếm hoi không có)

- % khả năng vận tải sạch/khả năng vậ tải cơ giới (tính theo trọng tải)

3

Bộ chỉ tiêu đánh giá tác động lên phân hệ kinh tế

- % vốn đầu tư từ du lịch cho các phúc lợi xã hội đia phương so với tổng giá trị đầu tư từ các nguồn khác

- % số chỗ làm việc trong ngành du lịch dành cho người địa phương so với tổng số lao động địa phương.

- % GDP của kinh tế địa phương bị thiệt hại do du lịch gây ra hoặc có lợi do du lịch mang lại

- % giá trị chi phí vật liệu xây dựng địa phương/ tổng chi phí vật liệu xây dựng

- % giá trị hàng hoá địa phương/tổng giá trị hàng hoá tiêu dung cho du lịch

4

Bộ chỉ tiêu đánh giá tác động của du lịch lên phân hệ xã hội – nhân văn

- Chỉ số Doxey

- Sự xuất hiện các bệnh/dịch liên quan tới du lịch

- Tệ nạn xã hội liên quan đến du lịch

- Hiện trạng các di tích lịch sử văn hoá của địa phương

- Số người ăn xin/tổng số dân địa phương

- Tỷ lệ % mất giá đồng tiền vào mùa cao điểm du lịch

- Độ thương mại hoá của các sinh hoạt văn hoá truyền thống xã định thông qua trao đổi chuyên gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn hiệu quả Di sản thế giới phố cổ Hội An để phát triển du lịch bền vững - 3

(Nguồn: UNWTO, Chỉ tiêu Phát triển du lịch bền vững)


Tổ chức du lịch thế giới UNWTO cũng đã xây dựng Bộ tiêu chí chung cho ngành du lịch bền vững, cụ thể Hệ thống chỉ tiêu môi trường dung để đánh giá nhanh tính bền vững của điểm du lịch được thể hiện qua bảng trên (Bảng 1.1)

1.1.1.3. Mục tiêu của phát triển du lịch bền vững

Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có định hướng tài nguyên rõ rệt và có nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng, xã hội hóa cao. Phát triển du lịch bền vững có vai trò và tầm quan trọng trong chính sách phát triển bền vững ở Việt Nam cũng như trên thế giới nhằm thực hiện 3 mục tiêu là: Kinh tế, văn hoá, tự nhiên:

- Phát triển du lịch bền vững giúp bảo vệ môi trường sống. Vì bảo vệ môi trường sống không chỉ đơn giản là bảo vệ các loài động thực vật quý hiếm sống trong môi trường đó, mà nhờ có việc bảo vệ môi trường sống mà con người được hưởng lợi từ đó: Không bị nhiễm độc nguồn nước, không khí và đất. Đảm bảo sự hài hòa về môi trường sinh sống cho các loài động thực vật trong vùng cũng là giúp cho môi trường sống của con người được đảm bảo.

- Phát triển du lịch bền vững còn giúp phát triển kinh tế, ví dụ, từ việc khai thác các đặc sản văn hóa của vùng, người dân trong vùng có thể nâng cao đời sống nhờ khách du lịch đến thăm quan, sử dụng những dịch vụ du lịch và sản phẩm đặc trưng của vùng miền, của vùng. Phát triển du lịch bền vững cũng giúp người làm du lịch, cơ quan địa phương, chính quyền và người tổ chức du lịch được hưởng lợi, và người dân địa phương có công ăn việc làm.

- Phát triển du lịch bền vững còn đảm bảo các vấn đề về xã hội, như việc giảm bớt các tệ nạn xã hội bằng việc cung cấp công ăn việc làm cho người dân trong vùng. Ở một cái nhìn sâu và xa hơn, du lịch bền vững giúp khai thác nguồn tài nguyên một cách có ý thức và khoa học, đảm bào cho các nguồn tài nguyên này sinh sôi và phát triển để thế hệ sau, thế hệ tương lai có thể được tiếp nối và tận dụng.

Chính vì vậy mà sự phát triển du lịch bền vững đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung và đồng bộ của toàn xã hội. Khái niệm phát triển du lịch bền vững không chỉ tập trung vào việc bảo vệ môi trường mà còn tập trung vào việc duy trì những văn hóa của địa phương và đảm bảo việc phát triển kinh tế, mang lại lợi ích công bằng cho các nhóm đối tượng


tham gia. Vì vậy phát triển du lịch bền vững luôn hướng tới việc đảm bảo được ba mục tiêu cơ bản sau:

- Đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế

- Đảm bảo sự bền vững về tài nguyên và môi trường

- Đảm bảo sự bền vững về xã hội.

Như vậy, mục đích chính của phát triển bền vững là để 3 trụ cột của du lịch bền vững - Môi trường, Văn hóa xã hội và Kinh tế - được phát triển một cách đồng đều và hài hòa.

Mạng Lưới tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hợp Quốc (United Nation World Tourism Organization Network - UNWTO) chỉ ra rằng du lịch bền vững cần phải đáp ứng các mục tiêu sau:

- Về môi trường: Sử dụng tốt nhất các tài nguyên môi trường đóng vai trò chủ yếu trong phát triển du lịch, duy trì quá trình sinh thái thiết yếu, và giúp duy trì di sản thiên nhiên và đa dạng sinh học tự nhiên.

- Về xã hội và văn hóa: Tôn trọng tính trung thực về xã hội và văn hóa của các cộng đồng địa phương, bảo tồn di sản văn hóa và các giá trị truyền thống đã được xây dựng và đang sống động, và đóng góp vào sự hiểu biết và chia sẻ liên văn hóa.

- Về kinh tế: Bảo đảm sự hoạt động kinh tế tồn tại lâu dài, cung cấp những lợi ích kinh tế xã hội tới tất cả những người hưởng lợi và được phân bổ một cách công bằng, bao gồm cả những nghề nghiệp và cơ hội thu lợi nhuận ổn định và các dịch vụ xã hội cho các cộng đồng địa phương, và đóng góp vào việc xóa đói giảm nghèo.

1.1.1.4. Nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững

Phát triển du lịch bền vững là sự hoà hợp, sử dụng hiệu quả đồng bộ 3 yếu tố kinh tế, tự nhiên, và văn hoá xã hội. Do vậy để phát triển du lịch bền vững cần đảm bảo thực hiện các nguyên tắc sau:

Nguyên tắc 1: Gia tăng lợi ích kinh tế xã hội cho cộng đồng địa phương và giảm thiểu các tác động tiêu cực.

Nguyên tắc 2: Gia tăng lợi ích đối với các di sản văn hóa và giảm thiểu những tác động tiêu cực.


Nguyên tắc 3: Tối đa hóa lợi ích đối với môi trường và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực.

Còn trong Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) trong tác phẩm “Hãy cứu lấy trái đất - chiến lược cho một cuộc sống bền vững” năm 1991 đã nêu ra 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững: (1) Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng; (2) Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người; (3) Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất; (4) Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài nguyên không tái tạo; (5) Giữ vững trong khả năng chịu đựng được của Trái đất; ·(6) Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân; (7) Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình; (8) Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ; (9) Xây dựng khối liên minh toàn cầu.

1.1.2. Cơ sở lý luận về bảo tồn di sản văn hoá

1.1.2.1. Khái niệm di sản văn hoá

- Khái niệm “di sản”

Thuật ngữ “di sản” được hình thành và được biết đến từ cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789. Quá trình tịch thu được tài sản của tầng lớp quý tộc, tăng lữ, nhà thờ giáo hội để tập trung tất cả lại thành tài sản quốc gia sau cách mạng tư sản Pháp đã dần dần hình thành khái niệm di sản. Để tránh sự thất thoát và phá hoại loại tài sản này, nhà nước Pháp lúc bấy giờ đã tiến hành kiểm kê, mô tả sắp xếp, phân loại các công trình lịch sử để xác định thứ tự ưu tiên nhằm khôi phục và bảo tồn di sản quốc gia. “Di sản trong thời kỳ đó được hiểu như “ý niệm về một tài sản chung, tài sản của mọi công dân, chứ không phải của riêng một ai, đó là ý niệm đã tạo thành cái ý thức về di sản quốc gia” [29].

Năm 1983, Hội nghị Di sản toàn quốc của Vương quốc Anh đã định nghĩa: “Di sản là những gì thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao cho thế hệ hiện nay và những gì mà một nhóm người quan trọng trong xã hội hiện nay mong muốn chuyển giao cho thế hệ tương lai” [20, tr.8].

Trong từ điển Tiếng Việt khái niệm “Di sản” được hiểu là cái của thời trước để lại. Trong đó di là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại; sản là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị” [32].

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 14/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí