Về Kiểm Soát Chất Lượng Hoạt Động Kiểm Toán


hơn trong quá trình thực hiện công việc cũng như giúp quá trình soát xét chất lượng tốt hơn. Đặc biệt các DNKT Big Four còn soạn riêng những tài liệu để đào tạo cho các nhân viên mới theo từng cấp bậc hoặc mỗi khi kiểm toán một khách hàng mới.

Về các kỹ thuật thu thập bằng chứng trong kiểm toán BCTC NHTM

Theo kết quả tìm hiểu của tác giả, tất cả các DNKT hiện đang kiểm toán BCTC cho ngân hàng đều luôn có ý thức bổ sung và hoàn thiện việc vận dụng các phương pháp kiểm toán trong quá trình kiểm toán. Tất cả các DNKT đều đã vận dụng kết hợp cả phư- ơng pháp kiểm toán tuân thủ và phương pháp kiểm toán cơ bản trong quá trình kiểm toán BCTC NHTM. Các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán của các DNKT cũng đã dần được hoàn thiện trong từng giai đoạn của một cuộc kiểm toán. Kỹ thuật chọn mẫu đã dần dần được hình thành và có ứng dụng phần mềm kiểm toán để xác định mẫu. Mẫu kiểm toán ngày càng toàn diện và đáp ứng được yêu cầu kiểm toán nhằm đảm bảo thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp cho những nhận định của KTV. Tại các DNKT Big Four, việc vận dụng phương pháp kiểm toán rõ ràng hơn, khoa học hơn và chuyên nghiệp hơn. Tại các DNKT ngoài Big Four thì phần nào cũng đã xây dựng được các phương pháp kiểm toán thích hợp cho các nội dung kiểm toán chính. Quy trình vận dụng các phương pháp kiểm toán nói chung, các kỹ thuật kiểm toán nói riêng trong quá trình kiểm toán BCTC của đa số các DNKT có kiểm toán cho ngân hàng tại Việt Nam hiện nay đều khá rõ ràng và tương đối phù hợp với lý thuyết cũng như chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành.

Về công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán:

Các DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four đều coi trọng công tác KSCL và ngày càng tăng cường công tác kiểm soát trong và sau cuộc kiểm toán. Hệ thống soát xét của các DNKT được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán từ khâu đánh giá rủi ro, chấp nhận hợp đồng kiểm toán; lập kế hoạch kiểm toán; thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán với đầy đủ các cấp soát xét theo quy định.

Nhìn chung, mặc dù ra đời và phát triển chưa lâu nhưng kiểm toán độc lập đã đạt được những thành quả vượt bậc. Số lượng và chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao và ngày càng được xã hội tin cậy. Tuy kiểm toán BCTC NHTM còn có những khó khăn, phức tạp nhất định xong cũng đã dần dần khẳng định được vai trò và tầm quan trọng không thể thiếu trong nền kinh tế. Tính trung thực, tin cây, minh bạch của các thông tin trên BCTC của NHTM ngày càng được nâng cao tạo niềm tin cho các đối tượng sử dụng thông tin cũng như tạo ra sự ổn định của nền kinh tế.

2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại

2.3.2.1. Về xác định đối tượng, mục tiêu kiểm toán

2.3.2.1.1. Về xác định đối tượng kiểm toán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:


Hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại tại các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 19

Tại cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four, mặc dù trong nhận thức và trong các quy định hướng dẫn đều xác định đúng và đầy đủ đối tượng kiểm toán tuy nhiên trong thực tiễn thực hiện vẫn còn tồn tại hạn chế là chưa quan tâm đúng mức đến Báo cáo LCTT; còn hỗ trợ ngân hàng lập Báo cáo LCTT, Thuyết minh BCTC và BCTC hợp nhất. Điều này ảnh hưởng đến tính khách quan của cuộc kiểm toán và tạo ra tiền lệ không tốt cho các cuộc kiểm toán sau này. Điều này cần được khắc phục trong thời gian tới.

2.3.2.1.2. Về xác định mục tiêu kiểm toán

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Tại cả hai nhóm DNKT đều đã xác định đúng đắn mục tiêu tổng quát của cuộc kiểm toán BCTC NHTM tuy nhiên đều chưa nêu được các mục tiêu chi tiết khác có liên quan nhằm giúp KTV hoàn thành trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán BCTC tuân thủ theo CMKit Việt Nam như: mục tiêu về xem xét tính tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan đến BCTC NHTM; mục tiêu về việc xác định các vấn đề cần trao đổi với Ban quản trị NHTM; mục tiêu về xác định và trao đổi các khiếm khuyết trong KSNB của NHTM; mục tiêu tư vấn hoàn thiện những hạn chế trong công tác quản trị cho NHTM.

Lưu ý đối với các DNKT ngoài Big Four:

Ngoài các hạn chế chung nêu trên, các DNKT ngoài Big Four còn chưa xây dựng được các mục tiêu kiểm toán đặc thù hay các CSDL đặc thù đối với một số khoản mục/nghiệp vụ chính trên BCTC NHTM trong các tài liệu hướng dẫn kiểm toán làm cơ sở cho KTV thực hiện để đạt được mục tiêu tổng thể của cuộc kiểm toán BCTC NHTM.

2.3.2.2. Về xác định nội dung kiểm toán

Đối với các DNKT Big Four:

Mặc dù đã xác định nội dung kiểm toán theo hoạt động kinh doanh nhưng thực tế chưa có hướng dẫn cụ thể trong các tài liệu việc phân bổ các khoản mục và thông tin vào từng hoạt động như thế nào.

Đối với các DNKT ngoài Big Four:

Các DNKT ngoài Big Four hiện nay vẫn chủ yếu xác định nội dung kiểm toán theo khoản mục. Phương pháp này có một số điểm hạn chế như khối lượng nhiều, chồng chéo, không phù hợp với xu hướng phát triển ngày càng mở rộng quy mô và đa dạng hóa sản phẩm của ngân hàng cũng như không phù hợp với việc kết nối với kết quả đánh giá KSNB (theo hoạt động kinh doanh) và phương pháp kiểm toán trên cơ sở rủi ro. Do đó, các DNKT ngoài Big Four cần hoàn thiện việc xác định nội dung kiểm toán để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán trong thời gian tới.


2.3.2.3. Về quy trình kiểm toán

2.3.2.3.1. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán

Bước xem xét chấp nhận/duy trì khách hàng và đánh giá rủi ro hợp đồng

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Như đã phân tích ở phần thực trạng, do sự cạnh tranh và áp lực về mặt doanh thu nên hầu như cả hai nhóm DNKT đều chấp nhận các khách hàng mời họ kiểm toán và việc tìm hiểu các thông tin để xem xét chấp nhận hoặc duy trì khách hàng và đánh giá rủi ro hợp đồng chỉ mang tính chất hình thức để hoàn thiện hồ sơ kiểm toán chứ không có ý nghĩa thực sự. Và chính điều này có thể dẫn đến rủi ro cho các DNKT khi chấp nhận những hợp đồng kiểm toán có rủi ro quá cao, đặc biệt các rủi ro gian lận.

Lưu ý đối với các DNKT ngoài Big Four:

Ngoài những hạn chế chung nêu trên, tại các DNKT ngoài Big Four các nội dung mà KTV tìm hiểu và ghi chép nhằm xem xét chấp nhận/duy trì khách hàng và đánh giá rủi ro hợp đồng khá đơn giản, chưa chi tiết, cụ thể, ít những nội dung yêu cầu KTV phải đưa ra các mô tả, phân tích, đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng đến đánh giá rủi ro và chấp nhận hợp đồng. Ví dụ các mô tả về đặc thù và tính chính trực của nhà quản lý, bản chất công việc kinh doanh, mối quan hệ kinh doanh và các bên liên quan, các rủi ro gian lận…Do đó, trong thời gian tới các DNKT ngoài Big Four nên hoàn thiện các mẫu biểu cũng như cần thực hiện đánh giá chi tiết hơn.

Về bước tìm hiểu về NHTM và môi trường kinh doanh của NHTM

Đối với các DNKT ngoài Big Four:

Hạn chế tại bước này chủ yếu tồn tại ở các DNKT ngoài Big Four. Tại các DNKT ngoài Big Four bước này còn khá sơ sài, chưa tìm hiểu nhiều thông tin mang tính chi tiết, cụ thể để bổ trợ cho KTV có một hiểu biết sâu sắc về NHTM để phục vụ cho quá trình đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trên BCTC của NHTM. Trong thời gian tới các DNKT ngoài Big Four cần hoàn thiện bước công việc này.

Về bước tìm hiểu quy trình lập BCTC và các hoạt động kinh doanh quan trọng của NHTM trong đó có môi trường CNTT

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Tại cả hai nhóm DNKT đều chưa vận dụng đầy đủ và kết hợp các phương pháp để ghi chép và mô tả kết quả tìm hiểu và đánh giá hiệu quả KSNB đặc biệt là phương pháp Sơ đồ để phản ánh một cách tổng quát các bước công việc và các thủ tục kiểm soát trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhiều DNKT chủ yếu vẫn sử dụng bảng câu hỏi kết hợp mô tả chi tiết về các bước kiểm soát và các thủ tục kiểm soát. Các phương pháp này dẫn đến gây khó khăn và tốn thời gian trong quá trình soát xét cũng như khó phát


hiện ra các rủi ro có sai sót trọng yếu tại từng chốt kiểm soát của ngân hàng vì 2 phương pháp này hiệu quả truyền đạt và khái quát không cao như phương pháp sơ đồ.

Lưu ý đối với các DNKT ngoài Big Four:

Ngoài hạn chế chung nêu trên, tại các DNKT ngoài Big Four bước tìm hiểu về các hoạt động kinh doanh liên quan đến BCTC NHTM còn khá sơ sài, chưa tìm hiểu nhiều thông tin mang tính chi tiết, cụ thể để bổ trợ cho KTV có một hiểu biết sâu sắc về các quy trình kinh doanh chính liên quan đến BCTC của NHTM để phục vụ cho quá trình đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trên BCTC của NHTM. Phương pháp tìm hiểu chủ yếu qua bảng câu hỏi phỏng vấn và quan sát. Sau khi tìm hiểu xong nhiều đơn vị cũng thường không sơ đồ hóa hoặc mô tả lại về các bước kiểm soát và các thủ tục kiểm soát của ngân hàng. Điều này dẫn đến khó phát hiện những khiếm khuyết trong KSNB của ngân hàng. Ngoài ra, bước tìm hiểu về môi trường CNTT tại ngân hàng chưa được thực hiện chi tiết trong khi NHTM là đơn vị áp dụng hệ thống CNTT rất mạnh mẽ. Vì vậy trong thời gian tới các DNKT ngoài Big Four cần hoàn thiện bước công việc này.

Về bước thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Tại cả hai nhóm DNKT: Như đã nêu trong phần thực trạng, khi thực hiện phân tích sơ bộ, các DNKT chủ yếu sử dụng các kỹ thuật phân tích xu hướng chỉ với việc so sánh số liệu thực tế kỳ này với số liệu thực tế kỳ trước mà hầu như không so sánh với số liệu kế hoạch, số liệu bình quân ngành, số liệu ước tính của KTV…Các KTV cũng sử dụng rất hạn chế các kỹ thuật phân tích tỷ suất, chỉ sử dụng những tỷ suất cơ bản. Việc phân tích sâu hơn các thông tin tài chính để có hiểu biết tốt hơn về NHTM, BCTC NHTM nhằm xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trên BCTC NHTM tốt hơn và lập kế hoạch kiểm toán phù hợp hơn. Trong thời gian tới các DNKT cần hoàn thiện hạn chế này.

Về bước xác định mức trọng yếu

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Hiện nay cả hai nhóm DNKT đều không phân bổ mức trọng yếu cho từng khoản mục trên BCTC mà sử dụng chung một mức trọng yếu thực hiện để áp dụng cho tất cả các khoản mục trên BCTC. Thông thường mức trọng yếu ban đầu được xác định chung cho cả BCTC sau đó mức trọng yếu lại được phân bổ cho các khoản mục tương ứng. Vì vậy, các khoản mục khác nhau sẽ phải có mức trọng yếu rất khác nhau. Việc áp dụng thống nhất một mức trọng yếu như trên là không hợp lý. Vì vậy có thể tồn tại khả năng các sai sót xảy ra được đánh giá sai về ảnh hưởng của chúng đối với các khoản mục trên BCTC.

Về phương pháp chọn m u và cỡ m u

Đối với các DNKT ngoài Big Four:


Hạn chế tại bước này chủ yếu tồn tại ở các DNKT ngoài Big Four. Hầu hết các DNKT ngoài Big Four hiện nay chưa áp dụng phần mềm kiểm toán cũng như phần mềm chọn mẫu do đó việc chọn mẫu chủ yếu dựa trên xét đoán của KTV. Do đó, việc chọn mẫu tại các DNKT ngoài Big Four nhiều khi thiếu tính thống nhất, có khi không theo phương pháp hay quy tắc nào cả mà thường theo kinh nghiệm của KTV thậm chí do cảm nhận đánh giá chủ quan. Đặc biệt có trường hợp còn cắt giảm quy mô mẫu kiểm tra đến mức tối thiểu, cắt giảm các thủ tục kiểm toán để giảm bớt thời gian và chi phí kiểm toán. Kết quả này đã ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán, rủi ro kiểm toán cao, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các đối tượng sử dụng thông tin có liên quan.

Bước tổng hợp kế hoạch kiểm toán và thiết kế chương trình kiểm toán chi tiết

Đối với các DNKT ngoài Big Four:

Hạn chế tại bước này chủ yếu tồn tại ở các DNKT ngoài Big Four. Như đã nêu ở phần thực trạng, các DNKT ngoài Big Four chỉ có một bản Chiến lược và kế hoạch kiểm toán tổng thể với mức độ khái quát không cao dẫn đến KTV khó nắm bắt được tổng thể cuộc kiểm toán. Đồng thời việc lập các chương trình kiểm toán cho từng khoản mục, bộ phận được kiểm toán của các DNKT ngoài Big Four vẫn mang tính chất hình thức, chủ yếu áp dụng nguyên mẫu chung mà thiếu những phần miêu tả rõ những sai sót trọng yếu có thể xảy ra chi tiết đến từng CSDL để KTV thực hiện kiểm toán phần hành đó xác định những biện pháp xử lý đối với những rủi ro đã đánh giá.

2.3.2.3.2. Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán

Về bước thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để kiểm tra hiệu quả hoạt động KSNB của NHTM

Đối với các DNKT ngoài Big Four:

Hạn chế tại bước này chủ yếu tồn tại ở các DNKT ngoài Big Four. Hầu như các DNKT ngoài Big Four thực hiện rất ít hoặc khá sơ sài các thử nghiệm kiểm soát đồng thời việc ghi chép lại cách làm và cũng như kết quả kiểm tra trên các giấy tờ làm việc cũng rất ít và không đầy đủ. Các DNKT ngoài Big Four hầu như chỉ thực hiện tìm hiểu về KSNB với mục đích chủ yếu để có đủ hiểu biết giúp họ lập kế hoạch kiểm toán, xác định phạm vi tin tưởng vào KSNB của khách hàng như là một phần của đánh giá sơ bộ về rủi ro và phát hiện những khiếm khuyết nếu có để đưa ra các khuyến nghị cho ngân hàng. Bên cạnh đó, việc vận dụng các kỹ thuật kiểm toán khi thực hiện các thử nghiệm kiểm soát cũng còn khá đơn giản, chủ yếu sử dụng kỹ thuật phỏng vấn và quan sát đồng thời việc ghi chép vào giấy tờ làm việc còn chưa đầy đủ và chi tiết.

Tuy nhiên, như đã phân tích ở các phần trên, việc đánh giá hiệu quả của KSNB trong cuộc kiểm toán BCTC NHTM là vô cùng quan trọng và cần thiết vì khối lượng nghiệp vụ quá lớn cũng như có sự phụ thuộc sâu sắc vào hệ thống CNTT do đó dù có thực hiện


phương pháp kiểm toán cơ bản với phạm vi rộng hơn cũng chưa đủ đảm bảo đầy đủ cơ sở cho các ý kiến kiểm toán. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả kiểm toán. Vì vậy, trong thời gian tới, các DNKT ngoài Big Four cần khắc phục hạn chế này.

Về thực hiện các thủ tục phân tích cơ bản:

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Những hạn chế của cả hai nhóm DNKT về thực hiện các thủ tục phân tích cơ bản trong giai đoạn thực hiện kiểm toán tương tự hạn chế về thủ tục phân tích sơ bộ ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Các DNKT vẫn chủ yếu sử dụng các so sánh đơn giản (so sánh số liệu thực tế của NHTM kỳ này với kỳ trước) kèm theo việc xem xét mối quan hệ của các thông tin được so sánh với các các thông tin phi tài chính. Ít thấy KTV so sánh số liệu thực tế của NHTM với số liệu kế hoạch, dự toán, số liệu bình quân ngành, số liệu dự tính của KTV hoặc sử dụng kỹ thuật phân tích tỷ suất. Tác giả cũng chưa thấy DNKT nào sử dụng đến các kỹ thuật thống kê tiên tiến để phân tích thông tin.

Lưu ý đối với các DNKT ngoài Big Four:

Ngoài những hạn chế chung nêu trên, việc vận dụng các thủ tục phân tích tại các DNKT ngoài Big Four vẫn còn một số điểm hạn chế khác là KTV rất ít sử dụng ứng dụng vẽ biểu đồ, sơ đồ trong exel để mô tả những mối quan hệ tương quan giữa các chỉ số nhằm phát hiện ra bất thường và những sai sót trên BCTC của NHTM.

2.3.2.3.3. Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán

Các công việc thực hiện sau hợp đồng kiểm toán

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, cả hai nhóm DNKT đều còn hạn chế ở khâu hoàn thiện giấy tờ làm việc và hồ sơ kiểm toán trong bước các công việc thực hiện sau hợp đồng kiểm toán. Việc hoàn thiện giấy tờ làm viêc và hồ sơ kiểm toán còn chưa đảm bảo đầy đủ và kịp thời. Điều này chưa đảm bảo tuân thủ các quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán và dẫn đến rủi ro KTV không chứng minh được ý kiến kiểm toán đã nêu ra là phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán do thiếu bằng chứng kiểm toán thích hợp khi các cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc Hiệp hội nghề nghiệp kiểm tra hoặc trong các trường hợp xảy ra kiện tụng, tranh chấp…

2.3.2.4. Về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán

Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:

Tại cả hai nhóm DNKT, công tác KSCL hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán BCTC NHTM nói riêng còn nhiều hạn chế. Bản thân các DNKT cũng đã xây dựng hệ thống các chính sách và thủ tục KSCL kiểm toán tuy nhiên chủ yếu còn


mang tính chất hình thức, việc thực hiện trong thực tế còn nhiều điểm hạn chế, kém hiệu quả và chưa tuân thủ đúng các quy định đã đề ra.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế trong công tác kiểm toán BCTC của ngân hàng tại các DNKT nêu trên do một số nguyên nhân cả về phía bản thân các KTV và các DNKT, mặt khác cũng do cả các nguyên nhân khách quan. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, các nguyên nhân chủ quan:

Về phía các DNKT vẫn chưa xây dựng một quy trình và tài liệu hướng dẫn kiểm toán BCTC riêng đối với lĩnh vực ngân hàng một cách đầy đủ, chặt chẽ, hiệu quả. Vấn đề KSCL cuộc kiểm toán cũng chưa hoàn thiện. Một số DNKT cũng chưa coi trọng việc nâng cao giá trị DN thông qua xây dựng văn hóa, hình ảnh DN và nâng cao chất lượng đội ngũ KTV.

Đối với các DNKT Big Four: Họ có thế mạnh là đã thực hiện kiểm toán BCTC của ngân hàng rất nhiều, có nhiều kinh nghiệm, có đội ngũ KTV và chuyên gia giỏi, được thừa hưởng rất nhiều hỗ trợ về quy trình và kỹ thuật của các Hãng kiểm toán quốc tế toàn cầu, đều đã áp dụng phần mềm vào cuộc kiểm toán nên về cơ bản chất lượng kiểm toán BCTC của ngân hàng đảm bảo và người sử dụng thường tin cậy hơn. Tuy vậy, vẫn còn một số những hạn chế trong công tác kiểm toán BCTC của ngân hàng tại các DNKT Big Four như sức ép về mặt thời gian do công việc kiểm toán thường bị dồn vào một số thời điểm cụ thể nên vẫn để xảy ra các tình trạng chưa kiểm soát tốt dẫn đến các rủi ro hoặc KTV thiếu những lời cảnh báo trên báo cáo kiểm toán đối với những người sử dụng thông tin (điển hình là trường hợp kiểm toán BCTC của ngân hàng Habubank do EY thực hiện hay kiểm toán BCTC của ngân hàng Oceanbank do Deloitte thực hiện như đã nêu tại phần Mở đầu của luận án).

Đối với các DNKT ngoài Big Four: Các DNKT ngoài Big Four thiếu một số điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán như ít kinh nghiệm hơn trong kiểm toán BCTC của ngân hàng( do mới tham gia kiểm toán loại hình ngân hàng; số lượng khách hàng còn rất khiêm tốn); thiếu đội ngũ KTV và chuyên gia giỏi về kiểm toán BCTC của ngân hàng; chưa áp dụng phần mềm kiểm toán nhằm hỗ trợ cho quá trình kiểm toán cũng như kiểm soát giấy tờ làm việc trong suốt quả trình kiểm toán; mới đang trong quá trình xây dựng quy trình kiểm toán riêng cho lĩnh vực ngân hàng; mới đang trong quá trình tiếp cận với phương pháp kiểm toán theo hướng rủi ro nên còn rất nhiều bỡ ngỡ và khó khăn. Ngoài ra, quá trình đào tạo cho các cấp KTV hiện nay của các DNKT chưa bài bản, hệ thống, chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất kèm cặp, hướng dẫn lẫn nhau là chủ yếu. Do đó, công tác kiểm toán nói chung, kiêm toán BCTC của ngân hàng nói riêng tại các DNKT ngoài Big Four cần khắc phục rất nhiều


những nguyên nhân hạn chế trên để nâng cao chất lượng hơn nữa nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường, để được thị trường tin cậy và tin dùng.

Về phía bản thân đội ngũ KTV chưa chủ động nâng cao trình độ chuyên môn để được thị trường trong nước cũng như tiến tới là thị trường quốc tế công nhận trong điều kiện hội nhập hiện nay. Đặc biệt là đối với các KTV tại các DNKT ngoài Big Four, họ chưa nỗ lực mạnh mẽ trong quá trình tiếp cận với các hoạt động mang tính chất hội nhập như tham gia học và thi để đạt các chứng chỉ quốc tế về kiểm toán như ACCA, CPA Úc…và tham gia các Hiệp hội quốc tế về kiểm toán từ đó có thể nhận được những kiến thức và kinh nghiệm kiểm toán hiện đại, khoa học trên thế giới. Bên cạnh đó, trong quá trình kiểm toán, tính độc lập của KTV còn chưa hoàn toàn được đảm bảo, chịu sự ảnh hưởng trên nhiều khía cạnh như lợi ích kinh tế và các quan hệ xã hội…

Các nguyên nhân khách quan

Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên, chất lượng kiểm toán BCTC của ngân hàng tại các DNKT ở Việt Nam còn chịu sự tác động của các nguyên nhân khách quan từ phía Nhà nước, Hiệp hội nghề nghiệp và phía các khách thể kiểm toán.

Về phía Nhà nước:

Nhà nước chưa xây dựng cơ sở pháp lý đồng bộ, nhất quán, thật sự nghiêm minh và đảm bảo quản lý chặt chẽ đối với hoạt động kiểm toán độc lập BCTC của ngân hàng cũng như chưa có cơ chế kiểm soát và xử phạt đủ mạnh trong trường hợp các ngân hàng công bố thông tin sai để có thể ngăn ngừa, phát hiện kịp thời các hiện tượng công bố thông tin sai lệch. Ngoài ra, Nhà nước chưa ban hành được các văn bản pháp lý quy định về trách nhiệm của DNKT đối với chất lượng dịch vụ kiểm toán như các quy định về việc mua bảo hiểm nghề nghiệp, các chế tài đánh giá chất lượng kiểm toán và giải quyết các tranh chấp khi xảy ra rủi ro kiểm toán, các biện pháp chế tài đối với các DNKT và KTV vi phạm đạo đức nghề nghiệp; chưa quan tâm đúng mức đến đào tạo KTV… Do vậy, chất lượng dịch vụ kiểm toán của các DNKT gần như còn "thả nổi".

Về phía các Hiệp hội nghề nghiệp:

Hoạt động kiểm soát chất lượng của Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam đối với các DNKT chưa được tiến hành thường xuyên và chặt chẽ. Phạm vi và mức độ kiểm soát vẫn còn hạn chế. Chưa xử phạt mạnh mẽ những trường hợp DNKT và KTV vi phạm nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán. Bên cạnh đó, sự trợ giúp về chuyên môn và kỹ thuật của các hiệp hội nghề nghiệp chưa có tác dụng nhiều trong hoạt động của các DNKT. Do đó các DNKT đặc biệt các DNKT ngoài Big Four vẫn hoạt động theo các nề nếp kiểm toán cũ, lạc hậu nên việc tiếp cận với các phương pháp và kỹ thuật kiểm toán mới, hiện đại, khoa học, hiệu quả còn chậm và ảnh hưởng nhiều đến việc nâng cao chất lượng và uy tín của DNKT trên thị trường.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023