Hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại tại các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 14



vẫn chưa được thực hiện bởi Tòa án kinh tế để loại yếu tố nguy cơ để đánh giá liệu hoạt động kiểm soát nội bộ

của ngân hàng là không đầy đủ trong việc quản lý và phê duyệt các hoạt động ngoại bảng hay không.


9. Có lý do để tin rằng rủi ro gian lận tồn tại liên quan đến sai sót trọng yếu phát sinh từ các

BCTC gian lận hoặc biển thủ tài sản ?


Đánh giá chung về rủi ro hợp đồng

Dựa trên đánh giá rủi ro được thực hiện ở trên, nguy cơ hợp đồng được đánh giá là :


Engagement Risk is assessed as:

GREATER THAN NORMAL RISK/CAO HƠN

TRUNG BÌNH


Nếu rủi ro được đánh giá là lớn hơn bình thường hoặc cao hơn nhiều so với bình thường , nó cần được xem xét liệu các yếu tố, riêng biệt hay kết hợp, là đáng kể, đủ để yêu cầu một phản ứng đặc biệt về thủ tục áp dụng (ví dụ như thủ tục kiểm toán bổ sung). Các bên trong hợp đồng nên đáp ứng với những yếu tố trong kế hoạch kiểm toán và thực hiện các cam kết và xem xét tầm quan trọng của thông tin mới thu được trong suốt cuộc kiểm toán mà có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá ban đầu.


Tài liệu cân nhắc trong việc xác định phân loại cũng như việc ứng phó với nguy cơ cao này .


Rủi ro hợp đồng được phân loại là “Cao hơn trung bình” như là một tổ chức tài chính và đơn vị hoạt động vì

mục tiêu lợi nhuận.

2- CÁC VẤN ĐỀ TRỌNG YẾU

….

3-CÁC RỦI RO ĐƯỢC XÁC ĐỊNH

4-CHẤP NHẬN VÀ DUY TRÌ KHÁCH HÀNG VÀ HỢP ĐỒNG KIỂM TOÁN : CÓ

5-KẾT LUẬN VỀ CÁC XUNG ĐỘT LỢI ÍCH, ĐẠO ĐỨC VÀ TÍNH ĐỘC LẬP

6-NHÓM KIỂM TOÁN

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.

Hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại tại các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 14


Tại các DNKT ngoài Big Four: Các DNKT ngoài Big Four cũng thiết kế các mẫu biểu riêng để tìm hiểu về các nội dung để xem xét chấp nhận khách hàng và đánh giá rủi ro hợp đồng. Tuy vậy, Giấy tờ làm việc của các DNKT ngoài Big Four chủ yếu là các câu hỏi đóng để người thực hiện điền các câu trả lời Có/Không, ít thấy phần câu hỏi mở và những nội dung mô tả của KTV. Đôi khi những nội dung yêu cầu điền thông tin KTV còn bỏ qua. Mẫu trên có ưu điểm là thực hiện nhanh và không đòi hỏi những mô tả, phân tích, xét đoán chi tiết của KTV tuy nhiên có hạn chế là việc đánh giá rủi ro khá đơn giản, chưa cụ thể, chi tiết làm cơ sở cho đánh giá rủi ro hợp đồng, chấp nhận hay duy trì khách hàng và không giúp cho KTV lập chiến lược kiểm toán và kế hoạch kiểm toán sau này.

Bảng câu hỏi đánh giá chấp nhận khách hàng của các DNKT ngoài Big Four được tác giả trình bày tại Phụ lục 2.2 – Đánh giá chấp nhận khách hàng tại Công ty TNHH kiểm toán Y1 (DNKT ngoài Big Four).


Để tìm hiểu về các nội dung trên, KTV thường thực hiện các cuộc phỏng vấn với những nhân sự có liên quan (Ban điều hành, Ban quản trị, bộ phận kiểm toán nội bộ và các đối tượng khác trong NHTM). Ngoài ra KTV cũng có thể thu thập thông tin thông qua kỹ thuật kiểm tra, quan sát và thủ tục phân tích.

Lập hợp đồng kiểm toán

Sau khi chấp nhận khách hàng mới hoặc duy trì khách hàng cũ, DNKT sẽ thực hiện lập hợp đồng kiểm toán. Khâu lập hợp đồng kiểm toán không có sự khác biệt giữa DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four cũng như khâu lập hợp đồng kiểm toán BCTC DN thông thường. Theo kết quả phiếu điều tra, cả DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four thường ký hợp đồng kiểm toán BCTC từng năm cho một NHTM. Nhìn chung các DNKT đều đảm bảo tuân thủ CMKit và các quy định khác của nhà nước về Hợp đồng kiểm toán.

Xây dựng kế hoạch nhân sự

Nhân sự được lựa chọn để tham gia cuộc kiểm toán ngân hàng phải đảm bảo các yêu cầu nhất định. Về phân công nhân sự, không có sự khác nhau giữa các DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four, cụ thể như sau:

Theo kết quả khảo sát, thông thường nhân sự tham gia kiểm toán BCTC NHTM được chia làm 2 nhóm. Nhóm 1 kiểm toán trên Hội sở của NHTM và thường kiểm toán các nội dung về Cho vay; Đầu tư; Liên ngân hàng; Tài sản có khác. Trong nhóm 1 kiểm toán ở Hội sở có phân công riêng một nhóm chuyên kiểm tra việc phân loại các khoản vay. Nhóm 2 sẽ kiểm toán dưới các chi nhánh của ngân hàng. Các chi nhánh được chọn mẫu để kiểm toán dựa trên cơ sở phân nhóm và luân phiên. Ví dụ chi nhánh cấp 1 thì năm nào cũng kiểm tra; Chi nhánh cấp 2 và cấp 3 thì lựa chọn tùy theo xét đoán của KTV xem ưu tiên kiểm tra các loại rủi ro nào. Khi phân công công việc trong các nhóm kiểm toán thì DNKT thường phân công theo từng loại hoạt động kinh doanh chính (đối với DNKT Big Four) hoặc theo khoản mục trên BCTC của NHTM (đối với DNKT ngoài Big Four).

Trong hầu hết cuộc kiểm toán BCTC NHTM ở Việt Nam hiện nay đều có sự tham gia của các nhân viên CNTT cùng nhóm kiểm toán, có các chuyên gia định giá nếu BCTC NHTM lập theo CMKit quốc tế (IFRS) do các báo cáo này đều áp dụng nguyên tắc giá trị hợp lý. Các DNKT thường sử dụng ngay các thẩm định viên của công ty mình hoặc có thể mời các chuyên gia định giá từ Singapore, Hồng Kông …để định giá. Tuy nhiên, kể cả khi sử dụng các chuyên gia tham gia vào cuộc kiểm toán thì Giám đốc kiểm toán vẫn phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ công việc thực hiện và các kết luận kiểm toán đưa ra.

Thông thường các DNKT đều có riêng một bộ phận hay nhóm kiểm toán CNTT (có thể nằm trong Phòng quản lý rủi ro) là các kỹ sư về tin học và CNTT chuyên nghiệp, có chứng chỉ kiểm toán hệ thống thông tin (thường là chứng chỉ CISA -


Certified Information System Auditor) và khi kiểm toán NHTM thì nhân sự trong đoàn kiểm toán có bố trí một số thành viên phụ trách kiểm toán CNTT (gọi là nhóm kiểm toán IT) để hỗ trợ cho nhóm kiểm toán tài chính trong quá trình kiểm toán. Một số DNKT ngoài Big Four chưa có bộ phận kiểm toán CNTT thì trong quá trình kiểm toán thường thuê các chuyên gia bên ngoài về lĩnh vực CNTT để trợ giúp KTV hoặc DNKT chủ yếu dựa vào kiểm tra chi tiết số liệu và kiểm tra hiệu quả của KSNB.

Tìm hiểu về NHTM và môi trường hoạt động kinh doanh của NHTM

Theo kết quả khảo sát, bước tìm hiểu về NHTM và môi trường hoạt động của NHTM có sự khác biệt đáng kể khi NHTM được kiểm toán lần đầu tiên hay lần thứ hai trở đi hoặc theo quy mô của NHTM. Thông thường nếu NHTM được kiểm toán từ lần thứ hai trở đi hoặc NHTM có quy mô nhỏ thì bước này được KTV thực hiện khá sơ sài. Thậm chí nhiều DNKT bỏ qua luôn bước này trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và sẽ chỉ bổ sung giấy tờ làm việc khi phải hoàn thiện hồ sơ kiểm toán để đảm bảo quy định của Công ty và CMKit. Do đó bước công việc này được thực hiện khá hình thức.

Đối với các NHTM kiểm toán lần đầu tiên hoặc có quy mô lớn và phức tạp thì bước công việc này được thực hiện chu đáo, cẩn thận và chi tiết hơn. Theo đánh giá chung của tác giả thì bước này có sự khác biệt giữa các DNKT.

Tại các DNKT Big Four, nhìn chung việc tìm hiểu về NHTM và môi trường hoạt động của NHTM khá chi tiết và có phân tích, đánh giá ảnh hưởng của các vấn đề đã tìm hiểu đối với BCTC NHTM và tới cuộc kiểm toán. Tuy nhiên mức độ phân tích, đánh giá những ảnh hưởng này không như nhau giữa các DNKT Big Four. Có DNKT phân tích đánh giá chi tiết và sâu sắc và có những DNKT chỉ dừng lại ở mức độ vừa phải.

Tại các DNKT ngoài Big Four, nhìn chung bước tìm hiểu về NHTM và môi trường hoạt động chỉ được thực hiện ở mức độ cơ bản, thu thập một vài thông tin chính rất sơ lược và rất ít những nhận xét, phân tích, đánh giá của KTV về ảnh hưởng của những yếu tố được tìm hiểu đến hoạt động kinh doanh của NHTM, BCTC NHTM và đến cuộc kiểm toán BCTC NHTM. Do đó bước công việc này vẫn mang tính chất hình thức và việc tìm hiểu chủ yếu chỉ để đủ giấy tờ làm việc trong hồ sơ kiểm toán mà ít có tác dụng thực sự giúp KTV xác định và đánh giá được rủi ro.

Tham khảo Mẫu Tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của NHTM tại Phụ lục 2.3A. Hiểu biết về đơn vị và môi trường kinh doanh của đơn vị tại Công ty Kiểm toán X3 và Phụ lục 2.3B Tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của khách hàng tại Công ty TNHH Kiểm toán Y1.

Tìm hiểu về các chính sách kế toán, quy trình lập BCTC và các hoạt động kinh doanh quan trọng của ngân hàng thương mại

Công việc này chủ yếu được thực hiện bởi các chủ nhiệm/trưởng phòng và trưởng nhóm kiểm toán. Mục đích của bước này nhằm tìm hiểu và đánh giá về rủi ro có


sai sót trọng yếu ở cấp độ CSDL đối với từng loại giao dịch, số dư tài khoản và thuyết minh trọng yếu trên BCTC NHTM nhằm lập kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán chi tiết cho từng khoản mục. Theo kết quả khảo sát, bước công việc này có sự khác biệt giữa nhóm các DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four, cụ thể như sau:

Tại các DNKT Big Four:

Tại các DNKT Big Four, bước công việc này được làm khá tỷ mỷ, chi tiết, đi sâu tìm hiểu quy trình lập BCTC và từng quy trình kinh doanh quan trọng của ngân hàng từ đó xác định rủi ro có sai sót trọng yếu để xác định trọng tâm kiểm toán.

Khi tìm hiểu về các hoạt động kinh doanh liên quan đến BCTC, KTV thường tìm hiểu các hoạt động sau: Hoạt động tín dụng (cho vay); Hoạt động huy động vốn; Hoạt động đầu tư; Hoạt động kinh doanh ngoại tệ; Hoạt động thanh toán và chuyển tiền;...

Đối với mỗi hoạt động kinh doanh, KTV đều tìm hiểu những nội dung gồm: Các loại giao dịch và sự kiện có trong hoạt động kinh doanh; các chính sách kế toán áp dụng trong hoạt động kinh doanh; các quy định pháp lý và nội bộ có liên quan đến hoạt động kinh doanh; quy trình kiểm soát (các bước kiểm soát) của hoạt động kinh doanh; các thủ tục kiểm soát tại từng bước kiểm soát bao gồm cả các kiểm soát tự động, bán tự động hay thủ công; các rủi ro có thể xảy ra tại từng bước kiểm soát…

Để tìm hiểu các nội dung trên, KTV có thể sử dụng các kỹ thuật như phỏng vấn thông qua Bảng câu hỏi phỏng vấn, quan sát công việc của những cá nhân, bộ phận có liên quan trong từng hoạt động kinh doanh, thực hiện lại hoặc điều tra.

Những hiểu biết về các hoạt động kinh doanh này sẽ được KTV thể hiện thông qua các tài liệu như Bảng câu hỏi phỏng vấn đã có câu trả lời của những người có liên quan; Sơ đồ hóa về các bước kiểm soát trong quy trình kinh doanh; Bảng mô tả tường thuật về những thủ tục kiểm soát tại từng bước kiểm soát trong quy trình doanh hay tài liệu mô tả về thử nghiệm từng bước (walkthroughs) về hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên không phải tất cả các DNKT Big Four đều vận dụng hài hòa và hợp lý tất cả các phương pháp trên. Có DNKT Big Four vẫn chủ yếu sử dụng Bảng hỏi và Bảng mô tả tường thuật để mô tả hiểu biết về quy trình kinh doanh, đánh giá khâu thiết kế và thực hiện của KSNB của hoạt động kinh doanh.

Trong thực tế, khi thực hiện kiểm toán BCTC NHTM, các DNKT Big Four thường sẽ thực hiện một cuộc kiểm toán sơ bộ (thường là tại 31/10). Trong kỳ kiểm toán sơ bộ này, công việc chủ yếu của KTV là đi sâu kiểm tra hoạt động KSNB của ngân hàng và lập kế hoạch kiểm toán. Như vậy, KTV đã thực hiện các thử nghiệm kiểm soát ngay ở cuộc kiểm toán sơ bộ để có sự hiểu biết chung về từng quy trình kinh doanh chính; đánh giá việc thiết kế và thực hiện của KSNB đối với hoạt động kinh doanh nhằm xác định các rủi ro có sai sót trọng yếu liên quan đến các số dư tài khoản, loại giao dịch và thuyết minh nằm trong hoạt động đó. Đến giai đoạn thực hiện


kiểm toán cuối năm, KTV có thể thực hiện thêm một số thử nghiệm kiểm soát, thường gọi là các thủ tục cuốn chiếu và cuối năm để đảm bảo đủ số mẫu phải thực hiện trong cả năm (theo hướng dẫn của Công ty và Hãng toàn cầu) để đánh giá hiệu quả hoạt động KSNB. Bên cạnh đó, các DNKT có một lợi thế là thường đã từng kiểm toán cho NHTM đó và đã thực hiện soát xét BCTC hàng quý cho ngân hàng. Do đó, về cơ bản KTV đã có hiểu biết về hoạt động KSNB của khách hàng cũng như hiệu quả của nó. Do đó, trong năm kiểm toán hiện tại, KTV có thể chỉ phải tìm hiểu những vấn đề mới phát sinh hoặc những thay đổi so với các lần kiểm toán trước để cập nhật lại cho hồ sơ kiểm toán năm nay liên quan đến KSNB của khách hàng. Do đó, đối với việc nghiên cứu và đánh giá KSNB trong cuộc kiểm toán BCTC NHTM không có sự phân định rạch ròi hay có sự giao thoa giữa các giai đoạn của quá trình kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch, KTV đã thực hiện rất nhiều các thử nghiệm kiểm soát còn trong giai đoạn thực hiện, nếu phát hiện các sai lệch so với dự tính trong khâu lập kế hoạch, KTV lại quay lại sửa chữa, điều chỉnh ngay kế hoạch kiểm toán cho phù hợp.

Ví dụ Mẫu Giấy tờ làm việc Tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của các DNKT Big Four được tác giả trình bày tại Phụ lục số 2.4A – Hiểu biết về quy trình huy động vốn tại Công ty TNHH Kiểm toán X2 (DNKT Big Four).

Trong giai đoạn này các DNKT Big Four cũng thực hiện tìm hiểu về môi trường CNTT để đánh giá các rủi ro liên quan đến BCTC NHTM. Khi tìm hiểu về môi trường CNTT, KTV thường tìm hiểu các nội dung như:

- Tổng quan về hệ thống thông tin: tên của môi trường CNTT; Những lĩnh vực của kiểm toán CNTT chung; Tổ chức và nhân sự hệ thống thông tin.

- Tìm hiểu về môi trường CNTT chung gồm: Trung tâm dữ liệu và hoạt động mạng; Việc mua, thay đổi, bảo trì phần mềm hệ thống; Thay đổi chương trình; Bảo mật truy cập; Việc mua, phát triển, bảo trì hệ thống ứng dụng…

- Những sự kiện quan trọng trong hệ thống thông tin kể từ lần kiểm toán trước: Những thay đổi quan trọng; Những vấn đề mà người dùng hoặc nhà quản lý gặp phải; Những thông tin khác.

- Những khiếm khuyết trong kiểm soát: Liệt kê những khiếm khuyết trong kiểm soát nếu có.

- Các rủi ro được phát hiện: Ghi chép lại các rủi ro trọng yếu liên quan đến các số dư tài khoản, giao dịch và thuyết minh cũng như rủi ro liên quan đến toàn bộ BCTC.

Thông qua các hiểu biết trên, KTV sẽ tổng hợp rủi ro và các rủi ro trọng yếu đối với từng loại giao dịch, số dư tài khoản và thuyết minh trọng yếu có liên quan trong hoạt động kinh doanh để làm căn cứ lập kế hoạch và chương trình kiểm toán chi tiết.


Tại các DNKT ngoài Big Four:

Theo kết quả khảo sát của tác giả, tại các DNKT ngoài Big Four, bước công việc tìm hiểu hoạt động kinh doanh liên quan đến BCTC được thực hiện nhưng khá sơ sài, chủ yếu thông qua một bảng câu hỏi để tìm hiểu về hoạt động KSNB, về quy trình lập BCTC và các quy trình kinh doanh.

Kiểm toán viên tìm hiểu về NHTM và KSNB của NHTM ở cấp độ toàn ngân hàng và ở cấp độ quy trình thông qua các thử nghiệm kiểm soát có thể được thực hiện ngay trong kỳ kiểm toán sơ bộ và trong giai đoạn lập kế hoạch với các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán như phỏng vấn (100% KTV sử dụng) kết hợp với quan sát (79% KTV sử dụng). Các kỹ thuật khác cũng được các DNKT ngoài Big Four kết hợp sử dụng như kỹ thuật điều tra (50% KTV sử dụng); kỹ thuật kiểm tra tài liệu (50% KTV sử dụng) và kỹ thuật thực hiện lại (50% KTV sử dụng).

Giấy tờ và tài liệu thể hiện sự hiểu biết về hoạt động KSNB của NHTM tại các DNKT ngoài Big Four chủ yếu là các Bảng câu hỏi chủ yếu dưới dạng Có/Không (100% KTV sử dụng). Ngoài ra, các DNKT ngoài Big Four cũng sử dụng kết hợp thêm một số tài liệu khác như Bảng mô tả, tường thuật các thủ tục kiểm soát tại các chốt kiểm soát của NHTM (50% KTV sử dụng); Sơ đồ mô tả (21% KTV sử dụng). Tuy nhiên, việc vẽ sơ đồ và việc mô tả chi tiết các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát của từng hoạt động kinh doanh mới chỉ dừng lại ở mức độ đơn giản. Tại các sơ đồ này, các KTV không ghi chép lại các thử nghiệm từng bước (walkthroughs) và các hoạt động kiểm soát của NHTM tại từng chốt kiểm soát cũng như chưa thấy đưa ra những rủi ro mà NHTM có thể mắc phải làm căn cứ cho KTV có thể xác định và đánh giá rủi ro ở các bước tiếp theo. Đặc biệt, việc tìm hiểu về môi trường CNTT chưa được thực hiện chi tiết tại các DNKT ngoài Big Four. Các hiểu biết về môi trường CNTT rất sơ sài, chỉ tìm hiểu một số nội dung cơ bản mang tính chất liệt kê để hoàn thiện hồ sơ chứ chưa giúp KTV xác định các rủi ro có thể tồn tại các sai sót trọng yếu trên BCTC của NHTM. Về cơ bản các DNKT ngoài Big Four vẫn thực hiện kiểm toán dựa chủ yếu vào kiểm tra chi tiết nghiệp vụ và số dư.

Ví dụ mẫu tìm hiểu về quy trình KSNB được tác giả trình bày tại Phụ lục 2.4B Câu hỏi về KSNB tại Công ty TNHH Kiểm toán Y2 (DNKT ngoài Big Four).

Thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ

Theo kết quả khảo sát, khi thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ BCTC, cả hai nhóm DNKT đều thực hiện theo các bước như (1) thu thập các thông tin tài chính và phi tài chính; (2) tính toán các chỉ số, so sánh thông tin; (3) trao đổi với BGĐ về các biến động hoặc các quan hệ bất thường hoặc bất ngờ thông qua phỏng vấn BGĐ và các cá nhân có liên quan. Tuy nhiên tại cả hai nhóm DNKT chủ yếu chỉ thực hiện các thủ tục


phân tích xu hướng trên Bảng CĐKT và Báo cáo KQHĐKD và phân tích một số tỷ suất lợi nhuận và cơ cấu vốn. Nhìn chung KTV thực hiện rất hạn chế các thủ tục phân tỷ suất và hầu như không thực hiện thủ tục phân tích ước tính. Ngay cả khi thực hiện kỹ thuật phân tích xu hướng, KTV chủ yếu so sánh số liệu thực tế của kỳ này với số liệu thực tế của kỳ trước mà rất ít so sánh giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán của chính NHTM hoặc so sánh với số liệu bình quân của ngành ngân hàng. Bên cạnh đó, KTV tại cả hai nhóm DNKT hầu như không thực hiện phân tích sâu hơn các thông tin tài chính (như việc tính toán các chỉ số về chất lượng tài sản, các chỉ số thanh khoản, hoạt động, sinh lời, đòn bẩy, năng suất, các tỷ số thu nhập, các tỷ lệ an toàn vốn hay rủi ro huy động…) để có hiểu biết tốt hơn về NHTM cũng như để xác định và đánh giá rủi ro.

Ngoài những điểm tương đồng trên, khi thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ cũng có sự khác biệt giữa hai nhóm DNKT. Tại các DNKT Big Four khi phát hiện ra những biến động lớn và bất thường, KTV sẽ phân tích và ghi chép hay ghi chú lại khá chi tiết các biến động này nếu đã tìm hiểu được các nguyên nhân. Còn tại các DNKT ngoài Big Four việc ghi chú và phân tích nguyên nhân của những biến động còn khá sơ sài, do đó chưa thực sự giúp KTV xác định và đánh giá rủi ro để khoanh vùng trọng tâm kiểm toán.

Tóm lại, với thực trạng vừa nêu trên, kết quả của các thủ tục phân tích sơ bộ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại các DNKT dường như chưa có hiệu quả cao nhất trong việc giúp KTV đạt được hiểu biết sâu sắc về NHTM cũng như việc xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trên BCTC NHTM để lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán đạt hiệu quả và chất lượng.

Tham khảo Mẫu Giấy tờ làm việc về Phân tích sơ bộ BCTC tại Phụ lục số 2.5 - Thủ tục phân tích sơ bộ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán X1 .

Đánh giá chung về KSNB và rủi ro gian lận

Bước này không có sự khác biệt giữa hai nhóm DNKT và các DNKT đều tìm hiểu thêm các thông tin để đánh giá hoạt động KSNB của NHTM ở cấp độ toàn NHTM nhằm giúp KTV xác định sơ bộ nhân tố rủi ro, gian lận và để lập kế hoạch kiểm toán, xác định nội dung, lịch trình và phạm vi các thủ tục kiểm toán để xử lý các rủi ro đã đánh giá. Bên cạnh đó, KTV cũng thực hiện các phỏng vấn đối với BGĐ và Ban kiểm soát, Bộ phận kiểm toán nội bộ về các yếu tố rủi ro liên quan đến các sai sót phát sinh từ lập BCTC gian lận và sai sót do biển thủ tài sản như các động cơ, áp lực và các cơ hội ảnh hưởng đến BGĐ và NHTM cũng như quy trình và các biện pháp của NHTM để đối phó với những rủi ro gian lận nêu trên.


Xác định mức trọng yếu và đánh giá rủi ro kiểm toán

Xác định mức trọng yếu

Theo kết quả khảo sát, bước này không có sự khác biệt giữa các DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four. Hiện nay, hầu hết các DNKT khi xác định mức trọng yếu đều tiến hành xác định các giá trị sau: 1 - Mức trọng yếu cho tổng thể BCTC; 2- Mức trọng yếu thực hiện; 3 - Ngưỡng sai sót có thể bỏ qua. Qua khảo sát thực tế, tác giả thấy không có DNKT nào tiến hành xác định mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện riêng cho từng loại giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh trọng yếu mà hầu hết sử dụng mức trọng yếu thực hiện và ngưỡng sai sót có thể bỏ qua cho tất cả các khoản mục trên BCTC NHTM. Việc xác định mức trọng yếu tại các DNKT được tiến hành cụ thể như sau:

Xác định mức trọng yếu cho tổng thể BCTC

Để xác định mức trọng yếu cho tổng thể BCTC NHTM, KTV thường lựa chọn chỉ tiêu Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh làm tiêu chí cho BCTC do đây là chỉ tiêu thường được người sử dụng BCTC NHTM quan tâm. Tỷ lệ phần trăm được KTV sử dụng thường nằm trong khoảng từ 5% đến 10% cho giá trị đó. Tỷ lệ phần trăm khác cũng có thể được áp dụng dựa trên xét đoán nghề nghiệp của KTV phụ trách cuộc kiểm toán đó.

Xác định mức trọng yếu thực hiện

KTV sẽ xác định mức trọng yếu thực hiện bằng cách trừ khỏi mức trọng yếu tổng giá trị những sai sót mà KTV dự đoán sẽ chưa được phát hiện và những sai sót mà KTV tin là BGĐ sẽ không sửa đổi trên BCTC. Những sai sót chưa được phát hiện bao gồm thực tế, xét đoán, dự kiến hoặc qua thực hiện thủ tục phân tích.

Để xác định mức trọng yếu thực hiện, KTV thường tính bằng một tỷ lệ % nhân với mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC. Tỷ lệ % này có thể dao động từ 50% đến 90% tùy thuộc vào xét đoán của KTV đối với rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểm toán được đánh giá càng cao thì tỷ lệ % được áp dụng sẽ càng thấp.

Xác định ngưỡng sai sót có thể bỏ qua

Để xác định ngưỡng sai sót có thể bỏ qua, KTV thường tính bằng một tỷ lệ phần trăm của mức trọng yếu hoặc mức trọng yếu thực hiện. Tỷ lệ phần trăm thường được KTV lựa chọn là 4% đến 5% nhưng KTV cũng có thể chọn một mức thấp hơn tùy thuộc vào xét đoán nghề nghiệp của KTV và dựa vào các yếu tố như điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của NHTM và của cuộc kiểm toán; bản chất của NHTM, lịch sử của những sai sót trọng yếu; số lượng địa điểm hoạt động…

Xác định mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện cho loại giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh cụ thể

Theo kết quả khảo sát thì chỉ có 19% DNKT Big Four và 11% DNKT ngoài Big Four trả lời có xác định mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện riêng cho loại giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh riêng.

Xem tất cả 296 trang.

Ngày đăng: 13/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí