Sự Vận Động Của Quỹ Bhxh Vào Thị Trường Tài Chính

động, chủ sử dụng lao động, BHXH trợ cấp và khắc phục những khó khăn về kinh tế cho người lao động. Nếu không có nguồn tài chính đảm bảo cho người lao động khi mất thu nhập thì họ có thể đi vào con đường xấu của tệ nạn xã hội. Tệ nạn đó sẽ làm cho xã hội trở nên rối ren, nền kinh tế - chính trị - xã hội mất ổn định. Trên giác độ đó BHXH góp phần tạo lập hệ thống an toàn chính trị - xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội.

- BHXH góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất. Hoạt động mạnh mẽ và rộng khắp của bảo hiểm xã hội giúp người lao động yên tâm làm việc, tạo tâm lý ổn định thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, khả năng lao động cao của người lao động. Sự an tâm làm việc góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội.

- BHXH làm tăng sự gắn bó mật thiết giữa người lao động, chủ sử dụng lao động và Nhà nước. Khi chủ sử dụng lao động thực hiện trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội để người lao động được hưởng các chế độ BHXH thì họ đã tạo được sự tin tưởng của người lao động đối với chủ sử dụng lao động, khuyến khích người lao động toàn tâm toàn ý, phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình công tác, gắn bó lâu dài với chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó nếu trong quá trình sản xuất, người lao động gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn... họ không thể tham gia sản xuất được doanh nghiệp vẫn phải trả thu nhập cho người lao động, nhưng sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ. Điều này là một gánh nặng tài chính đối với doanh nghiệp, lợi ích của doanh nghiệp bị đe dọa nếu không có bảo hiểm xã hội đứng ra gánh chịu cho họ. Thông qua việc tổ chức, duy trì hoạt động BHXH, Nhà nước đã đảm bảo cho mọi người, mọi tổ chức, mọi đơn vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần đảm bảo cho ổn định kinh tế chính trị xã hội.

- BHXH góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Trong quá trình hoạt động, BHXH thực hiện thu các khoản đóng góp và giải quyết các chế độ cho người lao động. Với nguyên tắc hoạt động lấy số đông bù cho số ít, trong những khoảng thời gian nhất định quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời

có những khoản tiền nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội góp phần tăng trưởng quỹ và tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước.

- BHXH thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao động. Biểu hiện cụ thể là thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao động có thu nhập cao với những người lao động có thu nhập thấp, giữa những người lao động đang lao động với những người lao động đang nghỉ việc vì nhiều lý do khác nhau qua đó BHXH đã trở thành một công cụ quan trọng trong việc tái phân phối thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH, thực hiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì và bảo vệ công bằng xã hội.

2.1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội

2.1.3.1 Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội

Con người ta sinh ra, lớn lên, hình thành nhân cách và trưởng thành, có sức lao động và được tham gia lao động, tạo thu nhập, là một quá trình hoạt động không ngừng, vừa nuôi sống bản thân, gia đình mình, vừa góp phần làm giàu cho xã hội. Trong quá trình lao động và sinh tồn, phát triển ấy, người lao động luôn phải gánh chịu và đương đầu với vô vàn các rủi ro. Những rủi ro đó có thể làm cho người lao động mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn, mất nguồn sống hoặc thậm chí chết người, con cái mất nơi nương tựa, hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Do đó để có thu nhập duy trì, ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình họ khi gặp rủi ro hoặc lúc tuổi già tất yếu phải lập quỹ dự trữ bảo hiểm thích hợp và đủ lớn. Mặt khác do quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lực lượng lao động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ còn có nghĩa vụ làm mẹ, sinh con, chăm sóc con khi ốm đau... điều đó cũng đòi hỏi phải có quỹ dự trữ bảo hiểm. Như vậy việc tạo lập quỹ dự trữ bảo hiểm cho người lao động những lúc rủi ro, bất ngờ hoặc lúc tuổi già, về hưu là một tất yếu khách quan.

Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm về quỹ BHXH như sau: “Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những bên tham gia BHXH hình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

thành nên một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm”.

Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, là phương tiện vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.

Hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 5

Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những "rủi ro xã hội" của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc san sẻ rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại về kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả NSNN và ngân sách gia đình.

Quỹ BHXH được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau. Trước hết, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Đây là nguồn lớn nhất và cơ bản nhất của quỹ BHXH. Thứ hai, là phần tăng thêm do hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ mang lại. Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH và các nguồn vốn khác.

Theo mục đích sử dụng, quỹ BHXH phải đảm nhận chi trả những khoản chủ yếu như: trả trợ cấp cho các chế độ BHXH (khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất); chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp; chi phí bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và các chi phí quản lý khác.

2.1.3.2 Đặc trưng cơ bản của quỹ bảo hiểm xã hội


Mục đích của quỹ BHXH là huy động sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, tạo lập quỹ tài chính để sử dụng nó, bảo đảm bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi có những sự cố bảo hiểm xuất hiện như: ốm đau, tai nạn, hưu trí, thất nghiệp... làm giảm hoặc mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động, nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Như vậy hoạt động của quỹ BHXH không phải vì mục đích

lợi nhuận mà vì quyền lợi của người lao động, của cả cộng đồng. Thông qua đó, xã hội được ổn định hơn, hạn chế được những tiêu cực và tạo điều kiện tốt hơn để xã hội phát triển. Đây chính là mục tiêu xã hội của bất kỳ một hệ thống BHXH nào. Chính mục tiêu này là điều kiện đầu tiên đảm bảo sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH nói riêng và hệ thống bảo hiểm xã hội nói chung. Bởi vì, hoạt động BHXH nếu vì mục tiêu kinh tế sẽ dẫn đến tình trạng quyền lợi của người lao động - người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bị hạn chế và khi đó người lao động - đối tượng hoạt động của BHXH sẽ kém tin tưởng vào hệ thống BHXH - tổ chức được coi là đại diện của Nhà nước. Khi BHXH không còn đối tượng hoạt động, điều dễ hiểu là hệ thống BHXH cũng không còn tồn tại và phát triển. Do đó, trong quá trình phát triển người ta luôn coi mục tiêu xã hội là kim chỉ nam cho hoạt động BHXH.

Như vậy, mục tiêu hoạt động của BHXH là mục tiêu xã hội, còn phương tiện hoạt động của BHXH là phương tiện kinh tế. Tôn trọng nguyên tắc này sẽ đảm bảo cho hoạt động BHXH tránh được sự xuất hiện hai thái cực hoặc là quỹ BHXH trở thành quỹ từ thiện, hoặc là sẽ trở thành phương tiện vật chất kinh doanh thuần túy. Cả hai thái cực này đều làm cho quỹ BHXH nói riêng và hệ thống BHXH nói chung không thực hiện được chức năng xã hội của mình và có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.

- Về bản chất, quỹ BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự "san sẻ rủi ro" của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc "lấy của số đông bù cho số ít" điều này thể hiện sự tương thân, tương ái lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.

- Quá trình sử dụng quỹ BHXH được chia làm hai phần:

Phần thực hiện chế độ hưu trí, tử tuất mang tính chất bồi hoàn, mức độ bồi hoàn phụ thuộc vào mức đóng góp vào quỹ BHXH. Vì vậy có thể nói rằng, quỹ

BHXH là một quỹ "tiết kiệm dài hạn" (bắt buộc hoặc thỏa thuận) đòi hỏi người lao động phải đóng góp đều đặn liên tục mới đảm bảo nguồn chi trả. Nó chỉ khác với quỹ tiết kiệm là không được rút tiền ra trước lúc nghỉ hưu. Nhưng nó lại tạo điều kiện cho việc đầu tư dài hạn để bảo toàn và phát triển quỹ BHXH.

Phần thực hiện các chế độ còn lại vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn. Nghĩa là khi người lao động đang trong quá trình lao động không bị ốm đau, tai nạn... thì không được bồi hoàn, khi bị ốm đau, tai nạn... thì được bồi hoàn, mức bồi hoàn phụ thuộc vào mức độ ốm đau, tai nạn... Phần này phản ánh tính chất cộng đồng của quỹ BHXH. Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình sản xuất phát triển bình thường và góp phần thực hiện an toàn xã hội, đòi hỏi không chỉ người lao động mà còn cả người sử dụng lao động và Nhà nước phải có trách nhiệm đóng góp và tổ chức quản lý quỹ BHXH.

- Sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia. BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH nói chung và quỹ BHXH nói riêng phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh. Ngược lại kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. Vì vậy việc vận dụng và thực hiện các chế độ BHXH do Tổ chức lao động quốc tế (ILO) khuyến nghị hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước, để vừa ổn định đời sống của người lao động, vừa ổn định phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tùy theo mô hình quản lý BHXH của từng nước, quỹ BHXH có thể bao gồm nhiều quỹ thành phần như quỹ BHXH cho các chế độ BHXH dài hạn, quỹ BHXH cho các chế độ BHXH ngắn hạn hoặc có nước chia ra từng loại quỹ như: quỹ bảo hiểm hưu trí, quỹ bảo hiểm thất nghiệp, quỹ bảo hiểm ốm đau...

Tuy nhiên dù được tổ chức như thế nào thì quỹ BHXH cũng nhằm mục đích chủ yếu là chi trả trợ cấp các chế độ BHXH cho những trường hợp được bảo hiểm. Ngoài ra quỹ BHXH còn phải trang trải cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp và các chi phí quản lý khác.

2.1.3.3. Vai trò của quỹ bảo hiểm xã hội

Trong nền kinh tế thị trường việc tạo lập quỹ BHXH có vai trò rất to lớn và được thể hiện trên các mặt sau đây:

- Về chính trị xã hội, việc hình thành quỹ BHXH tạo ra hệ thống an toàn xã hội. Bởi vì, khi người lao động mất việc làm, hoặc không còn khả năng lao động phải nghỉ việc, nếu không có nguồn tài chính đảm bảo cho họ khi mất thu nhập thì sẽ có thể đưa họ tới con đường tệ nạn xã hội... Tệ nạn đó là nguyên nhân làm cho xã hội mất ổn định về kinh tế, rối ren về chính trị và làm suy yếu đất nước. Nhưng nếu có BHXH chi trả cho họ khi gặp rủi ro để duy trì cuộc sống, thì những hiện tượng tiêu cực xã hội sẽ được hạn chế. Trên góc độ đó có thể nói rằng thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ BHXH góp phần tạo lập hệ thống an toàn chính trị - xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội.

- Về kinh tế, quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập ngoài NSNN do các bên tham gia bảo hiểm đóng góp nhằm phân phối lại theo luật định cho mọi thành viên khi bị ngừng hay giảm thu nhập gây ra bởi tạm thời hay vĩnh viễn mất khả năng lao động... Thông qua quá trình phân phối lại quỹ BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn xã hội về kinh tế cho người đóng bảo hiểm trong xã hội trước những trắc trở rủi ro. Mặt khác với chức năng phân phối lại theo nguyên tắc "lấy của số đông bù cho số ít", BHXH góp phần ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển, khuyến khích động viên NLĐ an tâm lao động sản xuất.

- Về thị trường tài chính, những khoản đóng góp của các chủ thể tham gia BHXH phần lớn được tích tụ lại, mà không phải ngay lập tức chi trả trợ cấp do tính chất đặc thù của rủi ro mà người lao động gặp phải là "sự xuất hiện của rủi ro là trong tương lai". Cùng với nguyên tắc "có rủi ro mới chi

trả", đặc thù này đã làm cho các khoản đóng góp BHXH trở nên nhàn rỗi. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính nhàn rỗi đó của BHXH sẽ được chuyển vào thị trường tài chính như một sự vận động tất yếu. Sự vận động của quỹ BHXH vào thị trường tài chính có thể được mô tả qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 2.1: Sự vận động của quỹ BHXH vào thị trường tài chính


Đóng góp

Quỹ BHXH

Vốn

Thị trường tài chính

Vốn

Vốn

- Cá nhân

- NSDLĐ

- Đối tượng khác

Những người thiếu vốn


Trên thị trường tài chính, quỹ BHXH thực hiện mua bán các công cụ tài chính như các loại trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoán tiền tệ... Như vậy, thông qua hoạt động đầu tư tài chính của quỹ, các khoản đóng góp BHXH đã được chuyển hoá thành vốn cung cấp cho những người thiếu vốn trên thị trường. Với vai trò này, quỹ BHXH được xếp vào các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng. Chu trình tài chính của quỹ BHXH là chu trình tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính.

Quá trình tham gia của quỹ BHXH vào thị trường tài chính được thực hiện trên hai thị trường: sơ cấp và thứ cấp. Trên thị trường tài chính sơ cấp, việc mua bán chứng khoán phát hành lần đầu của quỹ BHXH sẽ làm tăng quy mô vốn đầu tư cho thị trường. Còn trên thị trường thứ cấp, hoạt động mua bán các công cụ tài chính nhằm tìm kiếm lợi ích của quỹ sẽ góp phần tăng tính thanh khoản cho thị trường.

Hoạt động tích cực của quỹ BHXH sẽ không chỉ có tác dụng tài trợ vốn cho nền kinh tế, mà còn làm giảm rủi ro thanh khoản và chuyển hoá tốt hơn thời hạn của công cụ tài chính.

Như vậy BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng không thể

thiếu của mỗi quốc gia nhằm góp phần làm vững chắc thể chế chính trị, ổn định đời sống kinh tế - xã hội và làm lành mạnh hoá thị trường tài chính.

2.1.3.4. Nguồn hình thành quỹ BHXH (thu của quỹ BHXH)

Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó có hai nguồn chính là nguồn đóng góp của các đối tượng thuộc diện bắt buộc (gọi tắt là nguồn bắt buộc) theo quy định và nguồn đóng góp của các đối tượng tự nguyện (gọi tắt là nguồn tự nguyện). Về mặt hình thức, hai nguồn này tuy có khác nhau về phạm vi, đối tượng và mức độ đóng góp, song nội dung kinh tế-xã hội lại tương đối đồng nhất với nhau ở những điểm sau:

- Cả hai nguồn này đều có chung một mục đích là hình thành quỹ BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành do các bên tham gia đóng góp, là quỹ tài chính trung gian độc lập với NSNN.

- Mức thu BHXH từ hai nguồn này và cơ chế chi trả cho các chế độ BHXH đều do Nhà nước quy định. Quỹ BHXH được hạch toán độc lập theo nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước chi sau vì vậy quỹ BHXH vừa mang nội dung kinh tế vừa mang nội dung xã hội rất đậm nét. Quỹ BHXH luôn luôn phải được bảo tồn và phát triển để đảm bảo đủ lượng tiền tệ cần thiết chi trả cho các chế độ BHXH đúng thời gian, đúng đối tượng và đủ số lượng. Phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được phép đầu tư phát triển và các hoạt động đầu tư này đều theo quy định của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh.

Như vậy, dù quỹ BHXH được hình thành từ nguồn bắt buộc hay tự nguyện và mục đích chi trả cho các chế độ chính sách BHXH nào thì đều có chung những nội dung kinh tế - xã hội nêu trên.

2.1.3.5. Sử dụng quỹ BHXH (chi của quỹ BHXH)

Quỹ BHXH được hình thành để chi cho các chế độ BHXH theo nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy quỹ BHXH chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi nguồn thu của BHXH. Thông thường, quỹ BHXH sẽ được sử dụng để chi theo các nội dung sau:

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 21/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí