một doanh nghiệp đặc biệt, ở một góc độ cụ thể hơn, có khá nhiều những quan niệm và góc nhìn riêng về hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Quan điểm thứ nhất, Giáo sư kinh tế học và tài chính Đại học Yale-Peter S.Rose (2004) cho rằng: về bản chất NHTM cũng có thể được xem là một tập đoàn kinh doanh và hoạt động với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với mức độ rủi ro cho phép. Tuy nhiên, đạt được hiệu quả kinh doanh cao là mục tiêu được các ngân hàng quan tâm vì nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời có thể giúp ngân hàng mở rộng quy mô.
Quan điểm thứ hai, Ngân hàng Trung ương châu Âu-ECB (2010) cho rằng: hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng là khả năng tạo ra lợi nhuận bền vững. Lợi nhuận thu được đầu tiên dùng dự phòng cho các khoản lỗ bất ngờ và tăng cường vị thế về vốn, rồi cải thiện lợi nhuận thu được trong tương lai thông qua đầu tư từ các khoản lợi nhuận giữ lại
Quan điểm thứ ba, PGS.TS Nguyễn Khắc Minh (2006) cho rằng: hiệu quả hoạt động là mức độ thành công mà các doanh nghiệp hoặc các ngân hàng đạt được trong việc phân bổ các đầu vào có thể sử dụng và các đầu ra mà họ sản xuất đáp ứng mục tiêu đã định trước.
Quan điểm thử tư, Lý thuyết hệ thống cho rằng” hiệu quả có thể được hiểu ở hai khía cạnh:
- Khả năng biến đổi các đầu vào thành các đầu ra hay khả năng sinh lời hoặc giảm thiểu chi phí để tăng khả năng cạnh tranh với các định chế tài chính khác.
- Xác xuất hoạt động an toàn của ngân hàng.
Như vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng là một phạm trù phản ánh sự kết hợp và phân bổ hợp lý các nguồn lực, sự thay đổi công nghệ, mức độ lành nghề, trình độ quản lý, phản ánh quan hệ so sánh được giữa kết quả kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó
Tóm lại hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM là thu được lợi nhuận tối đa với chi phí tối thiểu.Đây cũng là mục tiêu mà các ngân hàng cần đạt được trong hoạt động kinh doanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - 2
- Ý Nghĩa Của Việc Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Của Nhtm
- Thực Trạng Các Nhân Tố Ảnh Hương Đến Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam
- Thực Trạng Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Vietinbank
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng người ta thường dùng 3 chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận như sau:
1.2.2.1. Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữa (ROE-Return on equity) : bằng lợi nhuận ròng chia cho vốn tự có cơ bản bình quân ( vốn cổ phần thường, cổ phần ưu đãi, các quỹ dự trữ và lợi nhuận không chia).
ROE đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vốn vào ngân hàng.
ROE=
Trong các nghiên cứu của Irshad và Zaman(2011); Abuzar (2013); ROE được sử dụng làm biến phụ thuộc để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng. ROE phụ thuộc vào các yếu tố như: tài sản, vốn chủ sở hữu, tiền gửi của khách hàng, chi phí trên thu nhập..Khi cơ cấu nguồn vốn huy động trên tổng tài sản càng lớn thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng nhỏ. Từ đó tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu sẽ cho kết quả khả quan nhưng lại không thể phản ánh được những rủi ro có thể xảy ra sau đó. Tỷ lệ ROE cao chưa thể khẳng định hiệu quả kinh doanh tốt của ngân hàng và tỷ lệ ROE thấp cũng chưa thể khẳng định ngân hàng kinh doanh kém hiệu quả.
1.2.2.2. Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA: Return on asset): ROA là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý của ngân hàng , cho thấy khả năng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng.
ROA=
ROA là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng. Nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa ngân hàng làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy ngân hàng làm ăn càng hiệu quả. Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì ngân hàng làm ăn thua lỗ. Mức lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm của giá trị bình
quân tổng tài sản của ngân hàng. Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của ngân hàng.
Syfari (2012), Abuzar (2013) đã sử dụng tỷ lệ ROA để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng. Kết quả cho thấy ROA phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: chi phí hoạt động, khả năng thanh khoản, quy mô ngân hàng, rủi ro tín dụng, quy mô tiền gửi, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, cung tiền…
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa ROE và ROA
ROE= ROE=
x
ROE= ROA x
Trong đó:
Tỷ số đòn bẩy tài chính =
Mối quan hệ trên cho thấy thu nhập của một ngân hàng rất nhạy cảm với phương thức tài trợ tài sản ( sử dụng nhiều nợ hơn hay nhiều vốn chủ sỡ hữu hơn). Một ngân hàng có ROA thấp vẫn có thể đạt ROE ở mức cao nếu sử dụng nhiều nợ ( gồm cả tiền gửi của khác hàng ) và sử dụng tối thiểu vốn chủ sở hữu trong quá trình tài trợ tài sản.
1.2.2.4. Tỷ lệ thu nhập cận biên : Đo lường tính hiệu quả và khả năng sinh lời
- Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên ( Net interest Margin_NIM): Là chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi, tất cả chia cho tích sản sinh lãi. Hệ số lãi ròng biên tế được các chủ Ngân hàng quan tâm theo dòi vì nó giúp cho Ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lời của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và việc tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. NIM càng cao thì ngân hàng càng có nhiều lợi nhuận.NIM được tính bằng công thức sau đây:
Hệ số lãi ròng biên tế =
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm, theo dòi vì tỷ lệ này giúp cho ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lời thông qua việc kiểm soát chặt chẽ các tài sản có sinh lời cũng như tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp. Dietrich và Wanzenried (2011) đã sử dụng tỷ lệ thu nhập lãi cận biên là một biến phụ thuộc trong các nghiên cứu về nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (Non interest Margin_MN): Đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu bị, ngoài lãi ( thu phí dịch vụ) với mức chi phí ngoài lãi ( tiền lương, sữa chữa, bảo hành thiết bị, chi phí tổn thất tín dụng…)
MN =
(Đa số các ngân hàng NM thường hay bị âm)
- Tỷ lệ sinh lời hoạt động(NPM): Phản ánh hiệu quả của việc quản lý chi phí và các chính sách định giá dịch vụ:
NPM =
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Các nhân tố bên trong ngân hàng
Các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng là các nhân tố chịu ảnh hưởng bởi các quyết định mang tính chủ quan của ban lãnh đạo ngân hàng. Các nhân tố này bao gồm: Quy mô tài sản ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi khách hàng, hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng, mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, chi phí hoạt động, công nghệ thông tin
1.2.3.1.1. Quy mô tài sản ngân hàng.
Quy mô tài sản ngân hàng là kết quả của việc sử dụng vốn trong ngân hàng, là những tài sản được hình thành từ các nguồn vốn của ngân hàng trong quá trình hoạt động. Các thành phần của tài sản bao gồm: ngân quỹ, danh mục tín dụng, danh mục đầu tư, tài sản cố định và các tài sản khác. Để tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa rủi
ro, đảm bảo nhu cầu thanh khoản và khả năng sinh lời, Ngân hàng luôn quan tâm đến việc thực hiện chiến lược đa dạng hóa các khoản mục tài sản để phân tán rủi ro, giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa thanh khoản và khả năng sinh lời trong khoản mục tài sản có và đảm bảo được sự chuyển hóa một cách linh hoạt về mặt giá trị giữa các danh mục của tài sản có nhằm giúp cho ngân hàng luôn có được một danh mục tài sản có phù hợp với những biến động của môi trường kinh doanh.
Đa số các ngân hàng có quy mô tài sản lớn sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn trong quá trình mở rộng kênh phân phối các sản phẩm dịch vụ do đó tiết kiệm các chi phí trong giao dịch, từ đó có thể tăng được lợi nhuận. Tuy nhiên, khi quy mô ngân hàng quá lớn, việc quản trị khối tài sản này sẽ đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và tốn kém nhiều chi phí trong quản trị, điều hành từ đó có thể sẽ làm giảm lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu của Fadzlan Sufia và Royfaizal Razali Chong (2008) tại Philippines và của Syafri (2011) tại Indonesia, đã tìm ra mối tương quan âm giữa quy mô ngân hàng và khả năng sinh lợi. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của Sufian (2011) tại Hàn Quốc; Alper và Anbar (2011) tại Thổ Nhĩ Kỳ, Irshad và Zaman (2011) tại Paskistan lại tìm ra mối tương quan dương giữa quy mô và khả năng sinh lời của ngân hàng.
1.2.3.1.2. Quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng
Vốn chủ sở hữa ngân hàng bao gồm các thành phần sau: Vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và dự phòng , một số tài sản nợ khác theo quy định của NHNN. Vốn chủ sở hữu cung cấp nguồn lực tài chính cho ngân hàng hoạt động trong thời gian mới bắt đầu hoạt động, là thời gian mà ngân hàng chưa nhận được tiền gửi từ khách hàng, giúp ngân hàng chống đỡ khi rủi ro phát sinh. Vốn tự có là nguồn vốn ổn định và luôn tăng trưởng trong quá trình hoạt động của ngân hàng, có thể sử dụng với kỳ hạn dài mà không phải hoàn trả nên nó chính là nền tảng cho sự tăng trưởng của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh ( thông thường từ 10% đến 15%), tuy nhiên nó lại giữ một vai trò rất quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành nên các nguồn vốn khác của ngân hàng đồng thời tạo nên uy tín ban đầu,
duy trì niềm tin của công chúng vào ngân hàng. Vốn tự có quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, nó còn là yếu tố để các cơ quan quản lý dựa vào để xác định các tỷ lệ an toàn trong kinh doanh ngân hàng ( Giới hạn huy động vốn, giới hạn cho vay, giới hạn đầu tư vào tải sản cố định….). Vì vậy để nâng cao sức đề kháng trước các rủi ro và nguy cơ phá sản trong kinh doanh, các ngân hàng phải duy trì sự ổn định, tăng trưởng vốn tự có một cách hợp lý.
1.2.3.1.3. Quy mô tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng là các khoản ký thác của doanh nghiệp, cá nhân vào tải khoản trong ngân hàng. Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn với nhiều kỳ hạn khác nhau. Quy mô tiền gửi càng lớn thì khả năng sử dụng vốn của ngân hàng càng tăng.Tỷ lệ tiền gửi so với tài sản càng lớn, ngân hàng càng có nhiều vốn để tài trợ cho các hoạt động tín dụng, góp phần mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, đối với mỗi nguồn vốn huy động , các ngân hàng cần quan tâm đến hai vấn đề quan trọng: chi phí để có được nguồn vốn và rủi ro của từng nguồn vốn. Kỳ hạn huy động vốn khác nhau sẽ tương ứng với mức độ rủi ro khác nhau và tương ứng với chi phí trả lãi khác nhau. Vì vậy, hoạt động huy động vốn cần phải có một chính sách lãi suất hợp lý để có thể vừa thu hút được lượng tiền gửi từ khách hàng vừa đảm bảo khả năng sinh lời cho NHTM.
1.2.3.1.4. Hoạt ộng tín dụng và rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng để tài trợ nhu cầu vay cho các chủ thể thiếu vốn trong nền kinh tế. Đây là hoạt động rất quan trọng và nó cũng chính là hoạt động kinh doanh truyền thống của ngân hàng vì nó thu hút hầu hết các nguồn vốn của ngân hàng (60-70%) mang lại 2/3 tổng thu nhập cho ngân hàng và là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro, mà qua đó có thể đánh giá được trình độ và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động tín dụng được thực hiện thông qua nhiều hình thức như: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán.Các nghiện vụ này sẽ mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ thu nhập lãi
vay. Khi ngân hàng mở rộng tín dụng, đồng nghĩa với thu nhập lãi sẽ tăng lên và lợi nhuận của ngân hàng cũng tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi tăng trưởng tín dụng không đi cùng với việc kiểm soát chất lượng tín dụng một cách chặt chẽ thì rủi ro sẽ xuất hiện. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng bị mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay của vốn tín dụng bị chậm lại làm ngân hàng kinh doanh không hiệu và có thể mất khả năng thanh khoản. Đồng thời trích lập dự phòng rủi ro tăng lên, từ đó làm tăng chi phí hoạt động và giảm lợi nhuận của ngân hàng.
1.2.3.1.5. Mức ộ a dạng hóa hoạt ộng kinh doanh
Ngoài hoạt động truyền thống là huy động vốn và cấp tín dụng, các ngân hàng còn thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh khác như: đầu tư tài chính, kinh doanh ngoại hối, cung cấp dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ giữ hộ tài sản, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bán chéo sản phẩm bảo hiểm…..Những hoạt động này là nguồn thu mang tính an toàn cho ngân hàng thương mại vì khi thực hiện những dịch vụ này ngân hàng không những không gặp nhiều rủi ro mà còn thu được phí dịch vụ .Khi đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, ngân hàng sẽ có nhiều thu nhập hơn, vì thế có thể giảm được sự phụ thuộc vào thu nhập lãi tín dụng với nhiều rủi ro tiềm ẩn.
1.2.3.1.6. Chi phí hoạt động ngân hàng
Chi phí hoạt động là các chi phí xảy ra trong quá trình hoạt động bình thường của ngân hàng bao gồm chi nộp thuế, các khoản phí, lệ phí, chi lương, phụ cấp, trợ cấp cho nhân viên, chi về tài sản, chi hoạt động quản lý công vụ, chi nộp bảo hiểm tiền gửi khách hàng, chi dự phòng ( không bao gồm chi phí dự phòng rủi ro tín dụng và giám giá chứng khoán). Các ngân hàng có chi phí hoạt động càng cao thì khả năng sinh lợi càng thấp.
1.2.3.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng là các nhân tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của các nhà quản trị ngân hàng. Các nhân tố này bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát…..
1.2.3.2.1. Tốc ộ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện qua sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Khi nền kinh tế phát triển thì các cá nhân,doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh vì vậy sẽ có nhiều nhu cầu vốn tín dụng hơn so với nền kinh tế suy thoái. Và khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì khả năng trợ nợ gốc và lãi đến hạn sẽ cao hơn, tỷ lệ nợ xấu theo đó sẽ giảm đi góp phần làm giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng
. Điều này có thể làm tăng lợi nhuận của ngân hàng. Ngược lại , điều kiện kinh tế suy thoái có thể gây nhiều tổn thất cho ngân hàng do sự gia tăng các khoản tín dụng không hiệu quả. Gul, Irshad và Zaman(2011); Syfari (2012) đã đưa ra những bằng chứng cho thấy tăng trưởng kinh tế làm tăng lợi nhuận ngân hàng. Mặt khác, nghiên cứu của Ayadi và Boujelbene (2011) lại đưa ra kết quả tương quan âm. Tăng trưởng kinhh tế làm tăng áp lực cạnh tranh cho các ngân hang thương mại và kết quả của tác động này là sự sụt giảm trong lợi nhuận
1.2.3.2.2. Tỷ lệ lạm phát
Lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền, nó là một chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng để đo lường rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Khi lạm phát cao các ngân hàng có xu hướng tăng lãi suất cấp tín dụng cao hơn mức tăng lãi suất tiền gửi điều này sẽ làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu lạm phát xảy ra bất ngờ và ngân hàng không điều chỉnh lãi suất kịp thì chi phí của ngân hàng có thể tăng nhanh hơn thu nhập và từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận. Lạm phát gây ra sự bất ổn cho nền kinh tế, làm cho rủi ro của ngân hàng tăng cao và lợi nhuận giảm