thiên về phát triển tư duy và kỹ năng quản lý. Quá trình đào tạo sẽ hướng đến cung cấp cho họ cả kỹ năng mềm và kỹ năng quản lý. Từ những chương trình đào tạo này sẽ tạo cho cán bộ quản lý một tiền đề cơ sở để triển khai các kế hoạch về cải cách, giúp họ chấp nhận được với sự thay đổi ở các cấp. Đặc biệt, các cán bộ quản lý cần được tập trung đào tạo thêm trong kỹ năng mềm để giúp giải quyết các vấn đề phát sinh của khách hàng trong những trường hợp nhân viên của mình chưa giải quyết được.
Thứ hai, đối với cán bộ thuộc đội ngũ giao dịch viên và chuyên viên quan hệ khách hàng tại các phòng giao dịch, chương trình đào tạo cần hướng tới mục đích đào tạo cho họ về các kỹ năng chuyên nghiệp trong giao dịch và quan hệ khách hàng, tạo ra một phong cách kinh doanh hiện đại riêng của ngân hàng. Thông qua chương trình đào tạo sẽ giúp những cán bộ này đáp ứng được với những yêu cầu cũng như đạt được những phẩm chất các nhân viên trong mạng lưới bán lẻ cần có. Nội dung đào tạo còn cần hướng tới nâng cao các kỹ năng mềm, tạo cơ sở cho nhân viên chuyển từ kiến thức sang thực hành, gia tăng được hiệu quả công việc. Thêm vào đó, các nhân viên phòng giao dịch mở tại các đô thị lớn cần được trang bị một trình độ ngoại ngữ nhất định để có thể giao dịch với khách hàng nước ngoài.
Thứ ba, chương trình đào tạo dành cho cán bộ tín dụng đi sâu về trình độ nghiệp vụ tín dụng. Chương trình đào tạo giúp họ nắm rõ được bản chất của các loại hình cho vay, lãi suất cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay, từ đó có những quyết định chính xác cho các khoản vay với các đối tượng khách hàng khác nhau.
Thứ tư, đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng, bên cạnh việc cung cấp các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ tín dụng, họ còn cần được trang bị về mặt pháp luật (như luật dân sự, luật kinh tế,..). Ngoài ra, để hoạt động tín dụng diễn ra hiệu quả, cán bộ quản lý cần phải nắm được các quy định, thể chế, phải vận dụng được chúng trong thực tiễn một cách linh hoạt. Các cán bộ quản lý tín dụng phải có khả năng trong tổng hợp và phân tích cũng như xác định được những điểm phù hợp, không phù hợp của chế độ và thể chế đó để đưa ra những kiến nghị với cấp trên kịp thời. Đồng thời, quản lý tín dụng sẽ tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên kiến thức
về tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học sẽ là những nội dung ngân hàng cần chú trọng để nâng cao.
+ Thực hiện các chương trình khuyến khích phát triển, nâng cao năng lực của cán bộ công nhân viên.
Kết hợp với mở các chương trình đào tạo, ngân hàng có thể khai thác năng lực chuyên môn từ những cán bộ công nhân viên của mình. Ngân hàng có thể mở các buổi hội thảo khoa học bàn về nghiệp vụ đối với cán bộ. Thông qua các buổi hội thảo này, ngân hàng có thể tìm ra được những cán bộ có trình độ lý luận nghiệp vụ vững vàng, những người có kiến thức kinh tế tổng hợp am hiểu về thị trường, có phương pháp nghiên cứu khoa học, hoặc những người có kinh nghiệm thực tế phong phú, có khả năng tổng hợp các vấn đề và kiến thức về pháp luật,…
Để nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ nhân viên, ngân hàng có thể thực hiện một số cuộc thi, khen thưởng hoặc chính sách đãi ngộ để khuyến khích cho những người có thành tích tốt. Cùng với đó, thực hiện các chương trình giao lưu giữa những nhân viên để họ có điều kiện trau dồi kiến thức chuyên môn với nhau, tự nâng cao được năng lực trình độ và sáng kiến trong hoạt động.
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng, Chiến Lược Phát Triển Của Bidv Đến Năm 2030
- Nhóm Giải Pháp Nâng Cao Thu Nhập Của Hoạt Động Phi Tín Dụng
- Nhóm Giải Pháp Nâng Cao An Toàn Tài Chính Và Thanh Khoản Trong Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam
- Ngân Hàng Nhà Nước Cần Đẩy Mạnh Công Tác Quản Lý, Thanh Tra Của Mình Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng
- Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - 26
- Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - 27
Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.
+ Xây dựng một số tiêu chuẩn trong tác phong làm việc của nhân viên.
Giao tiếp, ứng xử của nhân viên sẽ tạo ấn tượng đầu tiên với khách hàng, có thể tạo ra một đặc điểm riêng biệt của ngân hàng đến khách hàng. Do vậy, song song với nâng cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường, ngân hàng cũng cần chú ý tới tác phong của nhân viên để gia tăng tính hài lòng của khách hàng. Xây dựng một tiêu chuẩn bao gồm các tiêu chí cơ bản về tính hoạt bát, tính chân thành, tính thân thiện và tính cảm thông. Tiêu chuẩn này sẽ được áp dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, tùy vào từng bộ phận việc làm sẽ có những quy định cụ thể về các tiêu chí trong tiêu chuẩn đó.
Nhiều ngân hàng của Việt Nam như Techcombank, Vietcombank đã thực hiện xây dựng bước đầu về đánh giá tác phong và thái độ làm việc của nhân viên mình từ phía khách hàng. BIDV có thể thực hiện trên toàn hệ thống của mình thông qua xây dựng một bộ tiêu chuẩn về tác phong làm việc của nhân viên, kết hợp với khoa học công nghệ hiện đại đưa đến cho khách hàng đánh giá trong quá trình tiếp xúc với
khách hàng, ở tất cả các bộ phận tín dụng, thẻ, doanh nghiệp hay cá nhân,… Hàng tháng BIDV thực hiện đối chiếu đánh giá các kết quả thu được từ khách hàng và đưa ra một chế độ khen thưởng, phạt hợp lý với những nhân viên có đánh giá cao hoặc thấp, từ đó tạo động lực cho các nhân viên của mình trong quá trình làm việc. Việc đánh giá, đối chiếu và khen thưởng cần được thực hiện công khai và minh bạch.
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ mới tuyển dụng.
Thông qua bộ tiêu chuẩn hóa về chức danh, vị trí nghề nghiệp, ngân hàng có thể xác định đối tượng mình tuyển dụng sẽ thực hiện những công việc gì, xác định được mình đang cần tuyển dụng cho bộ phận nào và yêu cầu cụ thể đối với từng đối tượng. Qua đó, ngân hàng có thể giảm tải được thời gian cần thiết phải bỏ ra để đào tạo cán bộ mới, có thể đưa ra những chương trình đào tạo phù hợp cho đúng đối tượng.
Việc đào tạo nguồn nhân lực mới có thể tốn rất nhiều chi phí của ngân hàng. Giảm thiểu chi phí này, ngân hàng có thể tự đào tạo một đội ngũ giàu kinh nghiệm trọng nội bộ và sử dụng chính đội ngũ này để đào tạo nguồn nhân lực mới thay vì phải thuê từ bên ngoài. Đội ngũ đào tạo này đã có kinh nghiệm thực tế trong các vị trí nghề nghiệp của mình, do vậy trong quá trình đào tạo sẽ giúp cho nguồn nhân lực mới tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn và áp dụng chúng vào thực tế một cách linh hoạt, nhanh chóng hơn. Ngoài ra, ngân hàng có thể kết hợp nhiều phương thức đào tạo khác nhau (đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa,..), chất lượng đào tạo (cấp độ cơ bản, nâng cao, nghiên cứu,…) để nâng cao được chất lượng nhân viên mới những vẫn góp phần giảm thiểu chi phí đào tạo.
+ Tiếp thu năng lực, trình độ từ bên ngoài.
Thực tế khi so sánh với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và thế giới, nhân lực ngành ngân hàng của Việt Nam nói chung và BIDV nói riêng còn có khoảng cách rất xa về trình độ và năng lực quản lý. Cách nhanh nhất, hiệu quả nhất trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tiếp thu được kinh nghiệm quản lý của khu vực và thế giới, tiếp cận được với những phương pháp làm việc mới. Để làm được điều đó, BIDV có thể tổ chức các chương trình hợp tác quốc tế. Các chương trình hợp tác quốc tế này không chỉ giúp cán bộ công nhân viên tiếp cận với năng
lực, trình độ quản lý mới, mà còn có thể giúp NHTM tận dụng được sự hỗ trợ về tài chính, về nội dung đào tạo cũng như giảng viên và phương pháp giảng dạy tiên tiến.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
3.3.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý
Để một ngân hàng thương mại có thể hoạt động hiệu quả trên thị trường tiền tệ và tín dụng, chính phủ trước tiên cần ban hành và hoàn thiện môi trường pháp lý hoàn chỉnh, từ đó tạo một hành lang pháp lý an toàn, ổn định cho các ngân hàng hoạt động. Những quy định có liên quan tới các lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng như về huy động vốn, sử dụng vốn, trung gian hưởng hoa hồng cũng cần được ban hành những quy định riêng biệt, cụ thể. Qua đó ngân hàng có cơ sở để giải quyết những vướng mắc nếu có phát sinh. Ví dụ, Nghị quyết 42/2017/QLTDR4 ra đời đã giúp các ngân hàng rất nhiều về những khó khăn trong xử lý tài sản bảo đảm liên quan trong hoạt động sử dụng vốn.
Mặt khác, các dịch vụ và sản phẩm ngân hàng cung ứng trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 gắn với yếu tố khoa học công nghệ cao, với ngân hàng số, và với fintech. Từ đây cần một môi trường pháp lý hoàn thiện cho ngân hàng có thể phát triển các dịch vụ, sản phẩm và các lĩnh vực hoạt động này. Đưa ra các quy định cụ thể cho Fintech hoạt động để hỗ trợ các ngân hàng trong cung ứng sản phẩm.
3.3.1.2. Ổn định môi trường kinh tế, chính trị
Các ngân hàng hoạt động chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố rủi ro. Các rủi ro đến từ nền kinh tế thị trường, từ sự bất ổn về chính trị và xã hội. Để có thể tạo tiền đề vững chắc cho các ngân hàng thương mại hoạt động với vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế, chính phủ cần tạo một sân chơi với môi trường kinh tế, chính trị và xã hội ổn định.Sự biến động của nền kinh tế sẽ tác động lớn, đến nhiều khía cạnh của ngân hàng: từ lãi suất, tỷ giá hối đoái, chứng khoán, đến hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng. Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những biến động của nền kinh tế. Cũng tương tư, sự bất ổn về chính trị sẽ làm giảm sút tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đầu tiên đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, và tính an toàn về tín dụng của họ. Từ đây, chính phủ cùng các cơ quan
hữu quan cần đảm bảo sự ổn định của môi trường kinh tế, chính trị và xã hội, kịp thời điều chỉnh những bất ổn tiềm ẩn có thể xảy ra.
3.3.1.3. Tăng cường tính minh bạch, công khai thông tin và xếp hạng tín nhiệm khách hàng
Trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng, đầu tư và phi tín dụng, bản thân ngân hàng và khách hàng đều cần có thông tin thị trường, của đối tác để đưa ra phân tích, dự báo cho các hoạt động của mình. Trên thị trường hiện nay có nhiều nguồn thông tin, tuy nhiên yếu tố minh bạch, công khai và đảm bảo chất lượng thì còn chưa được chú trọng, quan tâm. Từ đây đề nghị chính phủ cần những quy định cụ thể về sự minh bạch thông tin của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, và các chủ thể khác, lấy đó làm tiêu chuẩn cho việc thành lập và công bố thông tin trên thị trường.
Bên cạnh đó, chất lượng thông tin cũng là vấn đề ngân hàng và các chủ thể quan tâm. Cần xây dựng một cơ sở dữ liệu thống nhất chung trong cả nước để từ đó không chỉ đảm bảo được yếu tố về chất lượng, dễ dàng giúp người cung cấp thông tin nắm rõ được các tiêu chí mà còn giúp người tiếp cận thông tin dễ dàng sàng lọc các thông tin mình cần.
Gia tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng không thể thiếu việc giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng trong quá trình hoạt động. Từ đó việc xây dựng một hệ thống xếp hạng tín nhiệm có thể giúp các ngân hàng xác định được yếu tố đầu vào khi lượng hóa rủi ro. Giúp các ngân hàng có thể xếp hạng các nhóm khách hàng của mình đề từ đó có cơ sở phân tích, đánh giá và xác định phù hợp dịch vụ, sản phẩm cung ứng cho khách hàng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
3.3.2.1. Ngân hàng nhà nước xây dựng hoàn thiện các giải pháp trong việc xử lý nợ xấu và tái cơ cấu của các tổ chức tín dụng
Để xử lý nợ xấu, VAMC đã ra đời và thực hiện mua lại rất nhiều nợ xấu của các TCTD, khiến cho tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng giảm mạnh, mang lại một tín hiệu tốt cho ngành cũng như tạo niềm tin cho khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động mua lại nợ xấu của VAMC đã giảm đáng kể vào năm 2014 và có dấu hiệu chững lại. Trong năm 2015, để đạt được mục tiêu đã đề ra, VAMC đã phải thực hiện xử lý nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt và theo giá thị trường.
Tái cơ cấu hệ thống TCTD đã được triển khai từ năm 2012 và đến nay đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, tái cơ cấu hệ thống TCTD ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn này mới chỉ chú trọng tới giải quyết các NHTM yếu kém để tránh tình trạng đổ vỡ của cả hệ thống, trong khi chất lượng của cả hệ thống không có sự thay đổi lớn và các vấn đề tồn đọng trước đó chưa được giải quyết. Cũng trong giai đoạn này, để giải quyết nợ xấu, tình hình tài chính yếu kém của một số NHTM, Việt Nam thực hiện đẩy mạnh các hoạt động về sáp nhập, mua bán lại giữa các NHTM với nhau. Tuy nhiên, một số trường hợp đã khiến cho các NHTM lớn với tình hình tài chính mạnh sau khi sáp nhập và mua lại đã giảm hiệu quả kinh doanh của mình. Mục tiêu trước mắt, ngành ngân hàng cần tập trung hình thành những NHTM có quy mô vốn lớn tương đương với ngân hàng trong khu vực và thế giới để làm trụ cột. Một điểm yếu nữa trong giai đoạn tái cơ cấu ngành ngân hàng trong giai đoạn này đó là, các NHTM mới chỉ chú trọng đến tái cơ cấu về tài chính, trong khi quản trị và hoạt động gần như chưa được quan tâm đúng mức. Để tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, NHNN có thể yêu cầu phương án nới “room” cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Mặc dù Việt nam đã đưa ra những quy định cụ thể về sở hữu của một tổ chức, một cá nhân trong một NHTM hay một TCTD nhưng tình trạng sở hữu chéo vẫn tồn tại trong hệ thống ngân hàng. Các quy định tuy đã được ban hành nhưng việc quản lý chúng lại lỏng lẻo, thiếu sự kiểm soát khiến cho tình trạng sở hữu chéo ngày càng phức tạp, hình thành rủi ro trên phạm vi rộng. Tình trạng sở hữu chéo này sẽ chỉ được đẩy lùi khi các quy định ban hành phải được kiểm soát chặt chẽ. Để làm được như vậy, NHNN cần thực hiện một số việc như: (1) NHNN đưa ra những yêu cầu và có chế tài bắt buộc các NHTM phải công khai, minh bạch thông tin về tỷ lệ sở hữu, các hoạt động có liên quan của toàn bộ ngân hàng cũng như các doanh nghiệp đang tồn tại sở hữu chéo. NHNN yêu cầu các NHTM phải công khai và báo cáo về cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần của các đối tượng; phải xác định được nguồn lực tài chính của các cổ đông tham gia vào góp vốn, mua cổ phần của các NHTM, xác định cổ đông là cá nhân hay tổ chức đầu tư vào NHTM; (2) NHNN cần phải đẩy mạnh hoạt động thanh tra, giám sát để phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm về sở hữu chéo của các NHTM. NHNN thực hiện theo dõi và giám sát việc
sáp nhập và mua bán lại, chuyển nhượng cổ phần của các NHTM để tránh những rủi ro xảy ra trên thị trường chứng khoán và rủi ro trong hoạt động của ngân hàng; (3) Kết hợp đó, việc ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật đồng bộ, rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho các NHTM. Các văn bản hướng dẫn cần được phát hành kèm để giúp cho cơ quan nhà nước thuận tiện trong việc hướng dẫn doanh nghiệp và NHTM thực hiện.
3.3.2.2. Đẩy mạnh lộ trình áp dụng Basel II
Chuẩn mực Basel II đang được áp dụng cho 10 NHTM lớn của Việt Nam, và theo lộ trình đến năm 2018 sẽ được áp dụng cho một số lượng NHTM lớn. Việc áp dụng Basel II cho hệ thống NHTM đang được đẩy mạnh, nhất là trong giai đoạn ngành ngân hàng Việt Nam muốn theo kịp các quốc gia trong khu vực- những nước đang áp dụng chuẩn mực Basel III. Trong quá trình thực hiện basel II của các NHTM lớn đã xuất hiện một số bất cập cần được khắc phục. Đầu tiên, chuẩn mực Basel II dựa trên điều kiện cần và đủ là báo cáo tài chính của NHTM phải chuẩn mực, được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán độc lập có uy tín thẩm định hoặc đôi khi bản thân NHNN sẽ chỉ định công ty kiểm toán. Nói cách khác, vai trò giám sát của NHNN trong kiểm toán báo cáo tài chính của NHTM là rất quan trọng. Trên thực tế, việc giám sát này của NHNN mới chỉ dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật nói chung, về các thanh tra rủi ro cụ thể trong hoạt động vẫn chưa được thực hiện. Mặt khác, khi muốn áp dụng Basel II, các NHTM cần tiến hành xếp hạng NH theo tiêu chuẩn của các nước trên thế giới. Muốn thực hiện xếp hạng, tình hình tài chính của NHTM đòi hỏi phải lành mạnh. Đây là một điều kiện còn vướng mắc tại Việt Nam khi tình trạng sở hữu chéo và tỷ lệ nợ xấu chưa được xử lý hoàn toàn.
3.3.2.3. Tăng cường vai trò và hiệu quả kinh doanh của trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) được hình thành với chức năng chủ yếu là cung cấp thông tin tín dụng cho các NHTM. CIC hoạt động hiệu quả có nghĩa thông tin khách hàng sẽ được cung cấp cho NHTM một cách nhanh chóng, chuẩn xác và kịp thời, từ đó NHTM có thể phát hiện, cảnh báo sớm, phân tích để đưa ra các quyết định tín dụng chính xác, giảm thiểu rủi ro phát sinh trong tín dụng.
CIC có nhiệm vụ trong việc cung cấp thông tin phục vụ hoạt động của NHNN; cung cấp thông tin cho TCTD; cung cấp về hoạt động xếp hạng tín dụng, chấm điểm tín dụng định kỳ hàng tháng của khách hàng (bao gồm cả thể nhân và pháp nhân). Cuối năm 2018, CIC đã thể hiện được ưu thế của mình trong việc cung cấp thông tin kịp thời cho Ban lãnh đạo NHNN và các Vụ; đã nỗ lực nâng cao chất lượng và độ phủ thông tin tín dụng, chất lượng phục vụ theo xu thế thị trường; thực hiện tốt việc tương hỗ và chia sẻ với các TCTD.
Mặc dù đến cuối năm 2018, CIC đã thu thập thông tin từ 100% TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhưng số lượng khách hàng CIC cập nhật được còn hạn chế. Số lượng tổng khách hàng vay được CIC cập nhật trong kho dữ liệu của mình mới chỉ dừng lại 36,8 triệu khách hàng. Mới chỉ có khoảng 7.300 khách hàng vay có thể đăng ký thành công tài khoản truy cập cổng thông tin. Điều này cho thấy sự hạn chế trong số lượng khách hàng tiếp cận được với các dịch vụ của CIC, cũng có nghĩa rằng số lượng khách hàng NTHM có thể tiếp cận về thông tin còn hạn chế.
3.3.2.4. Hoàn thiện hệ thống kế toán theo chuẩn mực của quốc tế
Chuẩn mực kế toán quốc tế do Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) ban hành, cập nhật, bổ sung và sửa đổi thường xuyên; được giám sát bởi Ủy ban sáng lập chuẩn mực kế toán quốc tế. Chuẩn mực kế toán quốc tế bao gồm ba nhóm chính, bao gồm: IASs do IASC ban hành; IFRSs do IASB ban hành; và các hướng dẫn thực hiện chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế do Ủy ban hướng dẫn IFRS ban hành.
Tại Việt Nam, Bộ Tài Chính đã ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán áp dụng cho các TCTD, tuân thủ 50% các chuẩn mực kế toán quốc tế theo đánh giá bởi Hiệp hội kế toán và kiểm toán Việt Nam. Các chuẩn mực về trình bày, ghi nhận và đo lường công cụ tài chính vẫn chưa được Bộ Tài Chính ban hành. Từ đây dẫn tới sự không thống nhất giữa chuẩn mực kế toán của các TCTD Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế. Hiện các NHTM Việt Nam đang áp dụng hai hệ thống chuẩn mực kế toán, là: chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS). Hai hệ thống chuẩn mực kế toán này có sự khác biệt trong một số chỉ tiêu, có thể kể đến như: số liệu dự phòng rủi ro tín dụng phải trích lập; dự phòng rủi ro tín