Phân Tích Thực Trạng Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Tmcp Á Châu Và Phương Pháp Nghiên Cứu


2.3.2.2. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Vietinbank

Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank) là hai trong số các tổ chức tín dụng đã xử lý khá thành công các khoản nợ xấu và hiện nợ xấu của hai ngân hàng này đang ở mức rất thấp. Để hạn chế tình trạng nợ xấu, trước hết, VietinBank phải thẩm định kỹ các dự án vay vốn. Các cán bộ tín dụng của ngân hàng thường xuyên và chủ động phối hợp với khách hàng vay để rà soát, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó thực hiện các giải pháp cơ cấu lại thời gian trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng. Trong một số trường hợp cụ thể, khách hàng có thể được xem xét để vay thêm kèm theo đó là các khoản hỗ trợ để khách hàng có thể trả được nợ mới và nợ cũ. Có trường hợp ngân hàng hỗ trợ để khách hàng miễn phải trả lãi suất (chỉ phải trả phần vay gốc). Cũng có trường hợp phải tiến hành bán nợ với tỷ trọng khoảng từ 50 đến 60% khoản nợ gốc …Theo chủ tịch HĐQT của ngân hàng Vietinbank cho biết, hiện nợ xấu ở VietinBank chiếm 2,1% tổng dư nợ tín dụng. Ngân hàng đang phấn đấu để cuối năm nay, nợ xấu chỉ còn 1,5%.

2.3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho ACB


Câu chuyện xử lý nợ xấu vẫn đang là mối quan tâm lớn của nền kinh tế cũng như công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian qua. Xử lý nợ xấu ở nước ta không thể áp dụng biện pháp xử lý nợ xấu bằng nguồn ngân sách nhà nước như chính phủ nhiều nước trên thế giới. Xử lý nợ xấu qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) là một nhóm giải pháp đặc thù của Việt Nam.

Từ các kinh nghiệm quản trị nợ xấu ở một số quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu trong quản trị nợ xấu của ngân hàng ACB như sau:

Thứ nhất: cần một quyết tâm chính trị mạnh mẽ từ các nhà lãnh đạo. Theo đó, cần có sự thay đổi trong quản lý và điều hành nền kinh tế để có điều kiện giải quyết vấn đề ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tái cấu trúc nền kinh tế có hiệu quả. Năm 2013 và các năm tiếp theo cần xác định rõ mục tiêu, cách làm cho từng năm để đạt hiệu quả cụ thể. Chính phủ cần chỉ đạo quyết liệt để xử lý hàng tồn kho và nợ xấu của ngân hàng, không để tình trạng vốn lòng vòng trong một số TCTD và


công ty con. Nhanh chóng giải quyết những bất ổn trong hệ thống, khắc phục phân bổ vốn đầu tư chồng chéo, kém hiệu quả, hạn chế nợ xấu mới tiếp tục gia tăng. Tái cơ cấu nền kinh tế là vấn đề lớn, cần sự chỉ đạo quyết liệt, nhất quán, buộc thực hiện, đồng thời lộ trình đưa ra phải rõ ràng, hợp lý và khả thi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Thứ hai, khẩn trương tái cơ cấu hệ thống NHTM. Xác định rõ tái cơ cấu ngân hàng là vấn đề phức tạp, khi mức độ quan hệ sở hữu vốn đan xen ở một số TCTD thì nợ xấu không dễ dàng xác định chính xác, việc tái cơ cấu phải có bước đi cụ thể. Vì vậy đề án tái cấu trúc (dù đã được Chính phủ phê duyệt) nhưng cần làm rõ: Mục tiêu cần đạt được sau tái cấu trúc hệ thống ngân hàng; mô hình ra sao; yêu cầu quản trị công ty, công nghệ, năng lực tài chính và nguồn nhân lực đối với các ngân hàng sau hợp nhất, sáp nhập... đạt ở mức nào sau tái cấu trúc v.v... Đối với NHTM nhà nước, phải tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá; giảm tỷ trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lý, để tăng năng lực tài chính; đổi mới hệ thống quản trị nội bộ ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế, cơ cấu lại các công ty con của ngân hàng mới có khả năng xử lý tận gốc nợ xấu của hệ thống.

Thứ ba, cần năng cao năng lực thanh gia, giám sát của ngân hàng. Những bất ổn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian qua cho thấy, việc giám sát của NHNN đối với các NHTM còn nhiều bất cập điều này thể hiện: các chính sách, quy định của NHNN không được thực thi nghiêm túc; một số NHTM đầu tư quá mức vào tài sản rủi ro cao (chứng khoán, bất động sản), vấn đề sở hữu chéo lòng vòng trong một số ngân hàng v.v... Vì vậy, đầu tiên phải nhanh chóng lập lại kỷ cương trong hệ thống thông qua giám sát, buộc các NHTM này phải công bố thông tin minh bạch. Hoàn thiện các văn bản pháp luật tạo môi trường pháp lý cho việc giám sát của NHNN và các cơ quan có liên quan.

Thứ tư, cần phải tuân theo chuẩn các quy định và thông lệ quốc tế về phân loại nợ xấu. Về mặt nguyên tắc, để giải quyết được nợ xấu trước hết phải tìm ra được con số thực và những nguyên nhân dẫn đến có con số đó thì mới có giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, một trong những rào cản lớn nhất khiến cho việc xác định chính xác số nợ xấu cũng như tình trạng nợ xấu tại các TCTD hiện nay đó là sự không rõ


ràng trong quy định về tiêu chí phân loại nợ. Theo thông tư 02/2013/TT-NHNN nợ của các TCTD được phân loại dựa trên cả 2 phương pháp định lượng và định tính. NHNN cho phép các ngân hàng lựa chọn 1 trong 2 phương pháp tùy theo khả năng và điều kiện thực hiện của từng ngân hàng. Chính vì vậy, có ngân hàng xác định tỷ lệ nợ xấu theo phương pháp định lượng, có ngân hàng theo phương pháp định tính. Trong đó, phân loại nợ theo phương pháp định tính được đánh giá là phương pháp phân loại nợ phát huy hiệu quả hơn, giúp cho TCTD có đầy đủ cơ sở để đánh giá tiềm lực và khả năng thanh toán nợ của khách hàng một cách chính xác và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, tại Việt nam hiện nay vẫn chưa có một quy chuẩn chung về tiêu chí định tính, NHNN cũng chưa có bất cứ hướng dẫn cụ thể nào về việc áp dụng phương pháp định tính mà chỉ có những quy định chung chung. Mặt khác, việc phân loại nợ theo phương pháp định tính yêu cầu TCTD thực hiện phải xây dựng một hệ thống đánh giá, xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng một cách chặt chẽ mà điều này lại không dễ thực hiện, đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian cũng như công sức. Một yếu tố quan trọng nữa đó là việc phân loại nợ theo tiêu chí định tính sẽ làm tỷ lệ nợ xấu cao gấp 2-3 lần so với định lượng mà nợ xấu cao đồng nghĩa với doanh nghiệp phải trích lập tỷ lệ dự phòng cao, đây là điều nhiều TCTD e ngại khi phân loại nợ xấu. Do đó, hiện nay ở Việt Nam có rất ít TCTD tiền hành phân loại nợ theo phương pháp định tính.

Thứ năm, cần phải tăng cường nguồn lực tài chính để xử lý nợ xấu. Nguồn tài chính cho các AMC cũng như các cơ chế xử lý nợ xấu ở các nước chủ yếu từ vốn tự có, vốn huy động, và vốn ưu đãi trong quá trình hoạt động. Việc xử lý nợ xấu qua VAMC mà không dùng nguồn ngân sách nhà nước hay vay nợ bên ngoài chắc chỉ có đặc thù ở Việt Nam. Do đó, hệ thống ngân hàng một mặt tiếp tục củng cố vững chắc thanh khoản, mặt khác tiếp tục xử lý nợ xấu bằng các nguồn lực tự có như RPRR, tái cơ cấu lại nợ. Đồng thời ban hàng loạt các quy định như chuẩn mực quản trị doanh nghiệp, chuẩn mực an toàn và quản lý rủi ro, chuẩn mực kế toán và phân loại tài sản…

Tuy nhiên, nhìn chung, việc xử lý nợ xấu bằng công ty mua bán nợ tập trung, quy mô toàn diện khá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là quá trình phê duyệt chủ


trương và phê chuẩn đề án cũng như ban hành các quy định pháp lý kéo dài khá lâu. Việc xử lý nợ xấu càng chậm thì chi phí phải trả càng lớn, số lượng doanh nghiệp phá sản càng nhiều và tiến trình phục hồi kinh tế càng khó khăn.


Kết luận chương 2

Chương 2 đã trình bày một số nét chính cơ sở lý luận về nợ xấu và công tác xử lý nợ xấu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Có thể thấy, toàn bộ bức tranh tổng quan về nợ xấu của các ngân hàng, nguyên nhân và cách thức các ngân hàng lựa chọn để xử lý nợ xấu cũng như các tác động của nợ xấu được trình bày rõ. Thông qua đó làm nổi bật vai trò và tính cấp thiết phải xử lý nợ xấu trong bối cảnh hiện nay của các NHTM Việt Nam. Thêm vào đó, việc nghiên cứu cơ chế xử lý nợ xấu tại một số quốc gia trên thế giới sẽ giúp ích cho Việt Nam có thêm kinh nghiệm quý báu trong quá trình xử lý nợ xấu ở nước mình. Cơ sở lý luận trình bày tại chương 2 là nền tảng cho việc đánh giá thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Á Châu trong chương 3.


CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Tổng quan về NHTMCP Á Châu


3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển NHTMCP Á Châu

3.1.1.1. Lịch sử hình thành của NHTMCP Á Châu

Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về ngân hàng thương mại (NHTM), hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990 đã tạo dựng một khung pháp lý cho hoạt động NHTM tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó, ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu (ACB) đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp ngày 24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động.

Tên đầy đủ bằng tiếng Việt: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Tên viết tắt bằng tiếng Việt: Ngân hàng Á Châu

Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: Asia Commercial Joint Stock Bank Logo của Ngân hàng:

Ngân hàng TMCP Á Châu Asia Commercial Bank – ACB được thành lập theo Giấy phép số 1

Ngân hàng TMCP Á Châu (Asia Commercial Bank – ACB) được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 24/04/1993, và Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Giấy phép hoạt động được cấp cho thời hạn hoạt động là 50 năm với vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng. ACB chính thức đi vào hoạt động kinh doanh từ ngày 04/06/1993. Vốn điều lệ của Ngân hàng tại ngày 31 tháng 12 năm 2011 là 9.376.965 triệu đồng.


3.1.1.2. Phát triển - các cột mốc đáng ghi nhớ


Tầm nhìn, mục tiêu và chiến lược nêu trên được cổ đông và nhân viên ACB đồng tâm bám sát trong suốt 13 năm hoạt động của mình và những kết quả đạt được đã chứng minh rằng đó là các định hướng đúng đối với ACB. Đó cũng chính là tiền đề giúp Ngân hàng khẳng định vị trí dẫn đầu của mình trong hệ thống NHTM tại Việt Nam trong lĩnh vực bán lẻ. Dưới đây là một số cột mốc đáng nhớ của ACB.

04/6/1993: ACB chính thức hoạt động. Đặc biệt là những cột móc đáng nhớ trong những năm gần đây. Cụ thể như

Năm 2011, ACB đã khánh thành Trung tâm Dữ liệu dạng mô-đun (enterprise module data center) tại Tp. HCM với tổng giá trị đầu tư gần 2 triệu USD. Đây là trung tâm dữ liệu xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Ngoài ra, Trung tâm Vàng ACB là đơn vị đầu tiên trong ngành cùng một lúc được Tổ chức QMS Australia chứng nhận hê ̣thống quản lý chất lượng đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn

ISO 9001:2008 và Tổ chứ c Công nhân

Viêṭ Nam (Accreditation of Vietnam ) công

nhân

năng lưc

thử nghiêm

và hiêu

chuẩn (xác định hàm lượng vàng) đáp ứng yêu

cầu tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2005.


Năm 2012, sự cố tháng 8/2012 đã tác động đáng kể đến nhiều mặt hoạt động của ACB, đặc biệt là huy động và kinh doanh vàng và thành lập mới 16 chi nhánh và phòng giao dịch.

Năm 2013, tuy kết quả hoạt động không như kỳ vọng nhưng ACB vẫn có mức độ tăng trưởng khả quan về huy động và cho vay VND. Nợ xấu được kiểm soát ở mức 3% sau những biện pháp mạnh về thu hồi nợ, xử lý rủi ro tín dụng và bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). ACB cũng kéo giảm hệ số chi phí/thu nhập xuống còn khoảng 66%, giảm 7% so với năm 2012.

Cơ cấu tổ chức NHTMCP Á châu


Cơ cấu tổ chức của ngân hàng ACB được tổ chức từ các bộ phần sau:


Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Ngân hàng.


Hội đồng quản trị: do ĐHĐCĐ bầu ra, là cơ quan quản trị Ngân hàng, có toàn quyền nhân danh Ngân hàng để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. HĐQT giữ vai trò định hướng chiến lược, kế hoạch hoạt động hàng năm; chỉ đạo và giám sát hoạt động của Ngân hàng thông qua Ban điều hành và các Hội đồng.

Ban kiểm soát: do ĐHĐCĐ bầu ra, có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính của Ngân hàng; giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, kế toán; hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ của Ngân hàng; thẩm định báo cáo tài chính hàng năm; báo cáo cho ĐHĐCĐ tính chính xác, trung thực, hợp pháp về báo cáo tài chính của Ngân hàng.

Các Hội đồng: Do HĐQT thành lập, làm tham mưu cho HĐQT trong việc quản trị ngân hàng, thực hiện chiến lược, kế hoạch kinh doanh; đảm bảo sự phát triển hiệu quả, an toàn và đúng mục tiêu đã đề ra. Hiện nay, Ngân hàng có 04 Hội đồng, bao gồm:

Hội đồng nhân sự có chức năng tư vấn cho Hội đồng quản trị các vấn đề về chiến lược quản lý và phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng để phát huy cao nhất sức mạnh của nguồn nhân lực, phục vụ hiệu quả cho nhu cầu phát triển của Ngân hàng.

Hội đồng tín dụng có chức năng xét cấp tín dụng, phê duyệt hạn mức tiền gửi của Ngân hàng tại các tổ chức tín dụng khác, phê duyệt việc áp dụng biện pháp xử lý nợ và miễn giảm lãi; quyết định về chính sách tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trên toàn hệ thống.

Hội đồng đầu tư có chức năng thẩm định các dự án đầu tư và đề xuất ý kiến cho cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư.

Hội đồng ALCO có chức năng quản lý cấu trúc bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng, xây dựng và giám sát các chỉ tiêu tài chính, tín dụng phù hợp với chiến lược kinh doanh của Ngân hàng.


Tổng Giám đốc: là người chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về hoạt động hàng ngày của Ngân hàng. Giúp việc cho Tổng Giám đốc là các Phó Tổng Giám đốc, các Giám đốc khối, Kế toán trưởng và bộ máy chuyên môn nghiệp vụ.

3.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHTMCP Á Châu năm 2013

3.1.3.1. Tình hình chung


Năm 2013, tuy vẫn còn chịu ảnh hưởng của biến cố tháng 8/ 2012, ACB đã trụ vững, tiếp tục lành mạnh hóa bảng tổng kết tài sản, củng cố các hoạt động ngân hàng truyền thống, và thu hẹp hoạt động đầu tư.

Kết thúc năm, Tập đoàn ACB đã đạt được các chỉ tiêu tài chính tín dụng cơ bản như sau:

• Tổng tài sản: 167.000 tỷ đồng;


• Vốn huy động: 151.000 tỷ đồng;


• Dư nợ cho vay khách hàng: 107.000 tỷ đồng;


• Tỷ lệ nợ xấu (nhóm 3 – nhóm 5): 3%;


• Lợi nhuận trước thuế: 1.035 tỷ đồng.


Mặc dù lợi nhuận và một số chỉ tiêu khác không như kỳ vọng, nhưng nhìn chung kết quả mà ACB đạt được là đáng khích lệ trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn và nỗ lực khắc phục và xử lý các vấn đề tồn đọng của mình.

Trong năm 2013 ACB đã thực hiện một số hành động nổi bật như sau:


• Triệt để tất toán trạng thái vàng tài khoản, chấm dứt huy động vàng, tích cực khuyến khích và hỗ trợ khách hàng chuyển đổi dư nợ cho vay bằng vàng sang dư nợ cho vay bằng VND.

Liên tục xử lý thu hồi nợ cũng như trích lập dự phòng đối với các khoản tín dụng và khoản phải thu tồn đọng.

• Tập trung cao độ vào việc xử lý và kiểm soát nợ xấu, rà soát tình trạng nợ, trích lập dự phòng, xóa nợ, và bán nợ. (Cuối tháng 12/2013 ACB đã bán hơn 400 tỷ đồng nợ xấu cho VAMC.)

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 10/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí