Nâng Cao Hiệu Quả Các Biện Pháp Xử Lý Nợ Xấu Của Ngân Hàng


NHNo&PTNT Việt Nam cần sớm xây dựng hệ thống báo cáo nhằm đáp ứng các yêu cầu của NHNN cũng như đáp ứng nhu cầu quản trị nội bộ.

Theo Basel, ban lãnh đạo ngân hàng nên triển khai một qui trình để thường xuyên giám sát hồ sơ rủi ro hoạt động và các nguy cơ trọng yếu có thể gây ra tổn thất. Cơ chế báo cáo phù hợp cần phải có ởcấp độ Hội đồng quản trị, Ban điều hành, đơn vị kinh doanh nhằm tạo điều kiện chủ động QTRR hoạt động.

Cần chú trọng công tác quản trị nội bộ, giúp ngân hàng chủ động nắm bắt những biến động trên thị trường, nhìn nhận được dấu hiệu rủi ro và cảnh báo sớm rủi ro. Để quản trị nội bộ tốt, ban lãnh đạo cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng trong QTRR hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam, thường xuyên cấp nhật quá trình đánh giá rủi ro hoạt động, đặc biệt những rủi ro trong phát triển sản phẩm mới hoặc triển khai một hoạt động kinh doanh mới.

NHNo&PTNT Việt Nam cần nâng cao hiệu quả kiểm toán nội bộ.

Định kỳ, kiểm toán nội bộ đánh giá hoạt động kinh doanh, tập trung vào các rủi ro chiến lược và rủi ro hoạt động, từ đó đưa ra các khuyến nghị để cấp quản lý rà soát, xác định và giải quyết. Yêu cầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải có hiểu biết toàn diện về toàn bộ hoạt động ngân hàng, các vấn đề pháp lý và qui định.

4.3.3. Nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng

4.3.3.1. Rà soát lại toàn bộ các khoản nợ, đánh giá khách quan, đầy đủ, chính xác rủi ro, khả năng trả nợ của khách hàng, các nguồn thu nợ

Với khối lượng dư nợ lớn, hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch rộng khắp cho nên việc rà soát lại toàn bộ các khoản nợ trong toàn hệ thống nhằm đánh giá lại một cách chính xác, khách quan về khả năng trả nợ của khách hàng, những rủi ro mà khoản nợ mang lại cho NHNo&PTNT Việt Nam là rất cần thiết. Giải pháp này đòi hỏi sự quyết tâm của toàn ngân hàng, hệ thống các văn bản hướng dẫn cụ thể có thể áp dụng cho các chi nhánh, phòng giao dịch với quy mô, đặc điểm khác nhau, sự tập trung tâm sức của cán bộ và các biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cấp lãnh đạo.

Giải pháp này đòi hỏi phải được làm thường xuyên, định kỳ để hiểu rõ hơn khách hàng cũng như phát hiện ra nhu cầu đầu tư của khách hàng, xây dựng nên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.


các mối quan hệ truyền thống với các khách hàng có uy tín, tìm kiếm khách hàng có tiềm năng phát triển.

Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 21

4.3.3.2. Áp dụng các biện pháp khai thác nợ trên cơ sở đánh giá đầy đủ khả năng phục hồi năng lực trả nợ của khách hàng

Quán triệt nguyên tắc chỉ được áp dụng các biện pháp này trong trường hợp con nợ có khả năng phục hồi năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, tránh tư tưởng áp dụng các biện pháp này để che dấu nợ xấu. Cụ thể:

- Cơ cấu lại nợ: chỉ áp dụng đối với các khách hàng khó khăn trả nợ do nguyên nhân khách quan, việc cơ cấu lại có thể giúp cho khách hàng điều chỉnh dòng tiền, từ đó thu xếp hoàn trả đầy đủ nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Biện pháp này đòi hỏi NHNo&PTNT Việt Nam phải xác định chính xác nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng khó khăn trong việc trả nợ. Từ các nguyên nhân khách quan cụ thể đó, các bộ phận liên quan phải đề xuất phương án cụ thể để cơ cấu lại khoản nợ cho phù hợp. Tránh trường hợp nhầm lẫn, sai sót dẫn đến rủi ro chồng rủi ro, nợ xấu chồng nợ xấu cho ngân hàng.

- Tiếp tục và tăng cường các biện pháp tư vấn để hỗ trợ khách hàng giải quyết những vấn đề khó khăn trong quản lý tài chính để từ đó giúp khách hàng vượt qua các trở ngại, hoạt động ổn định, tạo nguồn thu để trả nợ. Với đối tượng khách hàng phần lớn là DNNVV, chủ yếu hoạt động ở vùng nông thôn, năng lực quản lý đặc biệt là quản lý tài chính yếu kém dẫn đến hạn chế khả năng trả nợ. Cho nên việc tư vấn quản lý tài chính cho khách hàng từ ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính chuyên nghiệp là rất cần thiết, giúp khách hàng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, hồi phục khả năng trả nợ cho ngân hàng.

- Đối với các khoản cho vay nông nghiệp, nông thôn, nếu rủi ro xảy ra do nguyên nhân khách quan như thiên tại, lũ lụt, hạn hán… Nên xem xét miễn, giảm lãi tiền vay ở mức độ phù hợp để tạo động lực khách hàng hoàn trả nợ theo điều kiện đã được điều chỉnh

4.3.3.3. Tăng cường các biện pháp thanh lý nợ, xử lý dứt điểm nợ không có khả năng thu hồi

Nguyên tắc quán triệt đối với giải pháp này là sử dụng tất cả các biện pháp phù hợp để tận thu khoản nợ xấu, dứt điểm thu hồi nợ.


- Hoàn thiện hồ sơ pháp lý đối với các khoản nợ có TSBĐ, phối hợp với khách hàng, chính quyền địa phương để hoàn thiện các thủ tục pháp lý chuyển quyền sở hữu tài sản tiến hành xử lý TSBĐ

Hiện tại, BĐS là tài sản đảm bảo chủ yếu của NHNo&PTNT Việt Nam. Tài sản đảm bảo BĐS ở đây bao gồm nhà đất, bất động sản dự án. Tuy nhiên, cần lưu ý giá trị tài sản đảm bảo “ghi trên hợp đồng bảo đảm” sẽ là căn cứ để tính số tiền dự phòng cụ thể cho phần lớn các loại tài sản bảo đảm (về cơ bản loại trừ vàng và các loại chứng khoán). Như vậy số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ thì số tiền dự phòng cũng bằng không, có nghĩa là NHNo&PTNT Việt Nam trên thực tế không phải lập dự phòng cho khoản nợ đó.

Tuy nhiên, vì giá trị thực tế của tài sản bảo đảm ghi trên hợp đồng không được dùng để xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không trả được nợ, nên trên thực tế các NHTM nói chung và NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng thường qui định giá trị danh nghĩa trong hợp đồng bảo đảm ở Việt Nam. Với cách tính số tiền dự phòng cụ thể như trên, NHNo&PTNT Việt Nam cần lưu ý việc định giá tài sản đảm bảo ngay tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm cũng như thời điểm ký hợp đồng đảm bảo bổ sung trong trường hợp cầm cố, thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, giá trị dự toán tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm gốc chưa chắc chắn được chấp nhận dùng để tính dự phòng nếu bên vay không trả được nợ trước thời điểm tài sản đảm bảo hình thành. Ngoài ra, đối với việc cầm cố, thế chấp nhữngtài sản biến đổi, ví dụ như tài khoản, hàng hoá sản xuất và lưu thông của bên bảo đảm thì việc giá trị những tài sản này được ghi trong hợp đồng ra sao còn chưa rõ ràng.

Trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, môi trường pháp lý và chế độ kế toán, kiểm toán tài chính đang trong quá trình hoàn thiện, vì thế tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính, các thông tin của khách hàng cung cấp nhiều khi chưa đủ tin cậy theo đúng qui chế cho vay. Việc xử lý các tài sản đảm bảo còn bất cập sẽ dẫn đến nguy cơ ngân hàng bị mất vốn, do đó khi cho vay có tài sản đảm bảo có thể được xem là công cụ cần thiết để có thể hạn chế được tình trạng nợ xấu. Theo đó:


(i) Việc đánh giá tài sản đảm bảo cho món vay (bao gồm việc thẩm định điều kiện tài sản thế chấp, năng lực pháp lý của người thế chấp tài sản, tính thanh khoản của tài sản…) là cần thiết trong tình hình hiện nay. Đặc biệt từ đầu năm 2012, sau khi NHNN phân loại 4 nhóm ngân hàng với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tương ứng là 17%, 15%, 8%, 0% thì đương nhiên sẽ dần có sự dịch chuyển khách hàng từ các NHTM nhóm 3,4 về các NHTM nhóm 1, 2; và như vậy hơn lúc nào hết, cần phải đề cao vai trò của TSĐB, từ việc tuân thủ tỷ lệ xác định cho vay tối đa do Hội sở qui định, chẳng hạn như: thẩm định vị trí, tính thanh khoản của quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, hạn chế hoặc từ chối tài sản đảm bảo là hàng hoá, máy móc thiết bị khó quản lý, thanh khoản thấp…

(ii) Về giao dịch đảm bảo, nên có hướng dẫn rõ ràng các thủ tục xử lý TSĐB một cách thống nhất đối với các bên có liên quan. Làm như vậy sẽ phù hợp hơn với hình thức pháp lý của văn bản cũng như yêu cầu đặt ra. Không nên qui định quá chi tiết vào những nội dung thoả thuận giữa các bên, bởi những nội dung như vậy không qui định thì các bên cũng đã tự thoả thuận trong hợp đồng thế chấp tài sản.

(iii) Cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung trong cả nước về giao dịch bảo đảm giúp truy cập, đăng ký nhanh và cung cấp thông tin kịp thời về tài sản đảm bảo. Vấn đề tra cứu về tình trạng tài sản đảm bảo đang như thế nào, đang tranh chấp, kiện tụng hay đang trong quá trình xử lý nợ… Tất cả các thông tin khi được hệ thống hoá sẽ giúp cho ngân hàng có thêm thông tin trong quá trình thẩm định tài sản, do đó sẽ giảm thiểu đến mức tối đa rủi ro khi cấp tín dụng đối với khách hàng, ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu phát sinh.

- Các khoản nợ không có khả năng thu hồi, khả năng thu hồi từ TSBD thấp hoặc không có TSBĐ tiến hành xử lý bằng DPRR, sau đó tiếp tục tổ chức theo dõi tận thu các khoản đã xử lý rủi ro để giảm tối đa tổn thất tín dụng.

Một nguồn tài chính quan trọng để xử lý nợ xấu chính là Quĩ dự phòng rủi ro do NHNo&PTNT Việt Nam trích lập. Định kỳ NHNo&PTNT Việt Nam phải phân loại dư nợ cho vay và trích lập dự phòng rủi ro theo tỷ lệ mà NHNN qui định. Số tiền trích quĩ được lấy ra từ lợi nhuận và tính vào chi phí của ngân hàng...


NHNo&PTNT Việt Nam phải sử dụng quĩ này trong trường hợp phải bù đắp vốn vay hoặc tài sản đảm bảo không xử lý được. Đây là giải pháp chủ động mà NHNN buộc các ngân hàng thương mại phải làm để đảm bảo an toàn cho bản thân NHTM cũng như toàn bộ hệ thống. Sử dụng hiệu quả công cụ này sẽ ngăn chặn nợ xấu phát sinh. NHNo&PTNT Việt Nam cần phải tuân thủ đúng tỷ lệ trích lập, thời điểm trích lập hợp lý, kịp thời. Sử dụng quĩ dự phòng nên ưu tiên cho các khoản nợ xấu không có khả năng thu hồi và những khoản nợ có khả năng thu hồi thấp. Nên xác định khoảng thời gian tối đa từ khi bắt đầu xử lý bằng các phương pháp thu hồi nợ đến khi phải sử dụng Quĩ này. Việc trích lập và sử dụng Quĩ dự phòng hợp lý, khoa học vừa đảm bảo an toàn tín dụng, vừa tránh lãng phí nguồn tài chính của ngân hàng không được lưu thông.

Đây là giải pháp giúp ngân hàng nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời, ngân hàng có thể có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý hơn nhằm hỗ trợ cho việc tăng mức trích lập dự phòng, tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.

- Tiếp tục thực hiện bán nợ trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan. Ưu tiên bán theo nguyên tắc thị trường và xử lý dứt điểm các vấn đề phát sinh

Các khoản nợ đã bán cho VAMC cần phối hợp với VAMC trong việc theo dõi, đôn đốc khách hàng trả nợ để hạn chế tối đa việc các khoản nợ sẽ bị trả lại về sau 5 năm bán cho VAMC.

Việc bán nợ cho các tổ chức chuyên nghiệp có chức năng mua - bán nợ chuyên nghiệp không những là điều kiện tiên quyết để làm sạch Bảng cân đối kế toán của NHNo&PTNT Việt Nam, phục hồi tính thanh khoản, mà hơn nữa phục hồi chức năng cho vay và phục vụ nền kinh tế của ngân hàng. Ngược lại, nếu vấn đề nợ xấu không được xử lý ráo riết và khẩn trương, ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam có thể suy kiệt nhanh chóng vì mất vốn, mất thanh khoản và mất lòng tin của người dân và có thể kéo theo sự đổ vỡ hàng loạt của cả hệ thống ngân hàng.

Một tác dụng phụ nhưng rất tích cực trong việc mua, bán nợ, các ngân hàng phải đặt lên bàn đàm phán những khoản nợ xấu mà trước kia không được công bố. Việc minh bạch hoá và công khai hoá những thông tin về nợ xấu sẽ giúp các thành


phần kinh tế hiểu rõ hơn về thực trạng của các ngân hàng, và do đó tái tạo niềm tin vào hệ thống ngân hàng, một điều kiện tiên quyết cho sự ổn định và vững mạnh của hệ thống ngân hàng.

Đối với người đi vay, việc một ngân hàng bán một món nợ cho một công ty mua - bán nợ của Chính phủ có thể đem đến nhiều thuận lợi hơn bất lợi. Việc chuyển chủ nợ là một ngân hàng thương mại sang một công ty mua, bán nợ quốc gia có thể giúp các doanh nghiệp đi vay đang gặp khó khăn hưởng những biện pháp hỗ trợ của Chính phủ với mục đích phục hồi sức khoẻ tài chính và thoát ra khỏi sự áp đặt và khống chế của chủ nợ. Đối với chủ nợ mới, nếu là một công ty của Chính phủ, việc thu hồi nợ cũng sẽ thuận lợi hơn vì được sự hỗ trợ của các cơ quan hành chính và bộ phận tư pháp đầy quyền lực.

Bán nợ cho các tổ chức có chức năng mua - bán nợ chuyên nghiệp. Đây là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất giúp chủ nợ thu hồi một phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh doanh mới, nhằm cải thiện tình hình tài chính. Việc xử lý nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng cũng có điểm thuận lợi là công ty con của ngân hàng nên có điều kiện hiểu rõ từng khoản vay đối với khách hàng. Khi chuyển nợ xấu cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng, công ty có thể chủ động, nhanh chóng tìm khách hàng để bán tài sản thu hồi vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, để công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng xử lý nợ xấu hiệu quả, cần xây dựng cơ chế mua, bán nợ xấu rõ ràng, minh bạch, có sự tham gia giám sát chặt chẽ của NHNN, để tránh tình trạng nợ xấu trên bảng cân đối của ngân hàng có thể giảm nhưng chất lượng nợ không thay đổi, do không giải quyết tận gốc vấn đề.

Các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc NHTM (AMC) là đơn vị hạch toán độc lập, hoạt động vì mục tiêu bảo toàn vốn nhưng không phải quá chú trọng đến lợi nhuận. Các AMC được thành lập theo Quyết định 150/2001/QĐ-TTg ngày 5/1/2001 của Thủ Tướng Chính phủ về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM và Quyết định số 1389/2001/QĐ- NHNN ngày 7/11/2001 của Thống Đốc NHNN ban hành qui định về việc thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM. Hiện tại có khoảng hơn 20


AMC đã được thành lập với các chức năng cơ bản: tiếp nhận, quản lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản bảo đảm tiền vay liên quan đến các khoản nợ để xử lý, thu hồi vốn nhanh nhất; Hoàn thiện hồ sơ có liên quan đến các khoản nợ theo qui định của pháp luật trình các cơ quan có thẩm quyền cho phép ngân hàng xoá nợ cho khách hàng; Chủ động bán các tài sản đảm bảo nợ vay thuộc quyền định đoạt của NHTM theo giá thị trường; Cơ cấu lại nợ tồn đọng; Xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay; Mua, bán, xử lý nợ tồn đọng của các đơn vị khác theo qui định của pháp luật.

Trên thực tế, phần lớn các AMC vẫn chỉ làm cách truyền thống là xử lý tài sản đảm bảo; không thu hồi được thì khởi kiện mặc dù thủ tục từ lúc khởi kiện đến lúc cưỡng chế ít nhất 2 năm. Nguyên nhân là do mặc dù các AMC được thành lập nhưng thiếu cơ chế hoạt động, chỉ chịu điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp, nên không đủ cơ sở pháp lý để hoạt động. Môi trường pháp lý của Việt Nam chưa hỗ trợ đầy đủ cho ngân hàng chủ động xử lý tài sản đảm bảo mà không có sự can thiệp của toà án.

Để giải quyết vấn đề này, NHNN phải chỉ đạo và kết hợp với Chính phủ tạo khung pháp lý riêng cho các AMC cũng như cơ chế mua, bán nợ rõ ràng, minh bạch, đồng thời không chồng chéo với nhiệm vụ mua, bán nợ của DATC. Hoạt động của AMC trong việc giải quyết nợ xấu là khả thi, xuất phát từ điểm mạnh của AMC như: là công ty của NHTM nên có điều kiện hiểu rõ từng khoản vốn vay đối với khách hàng, đặc biệt là các điều kiện liên quan đến tài sản thế chấp trong mỗi khoản vay đó, khi chuyển nợ xấu cho AMC của ngân hàng, công ty có thể chủ động, nhanh chóng tìm khách hàng để bán tài sản thu hồi vốn cho ngân hàng.

Trước mắt các AMC nên phát triển theo hướng đa chức năng như: môi giới mua bán bất động sản, tư vấn cơ cấu doanh nghiệp… vừa tạo ra thu nhập, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho AMC trong việc xử lý nợ xấu. Các nhân viên thuộc AMC cần được ưu tiên đào tạo, cập nhật kiến thức về tình hình nợ xấu cũng như các ký thuật mới về xử lý nợ xấu trong và ngoài nước.

4.3.3.4. Áp dụng qui trình chặt chẽ trong xử lý nợ xấu

Việc xử lý nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm của các NHTM nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nói riêng vì chỉ có bản thân ngân hàng mới hiểu được nguyên nhân nợ xấu và hướng xử lý. Ngân hàng


cho vay, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, nợ xấu phát sinh thì ngân hàng cũng là người đầu tiên phải xử lý.

NHNo&PTNT Việt Nam cần phải xác định xử lý nợ xấu phải là một quá trình lâu dài và phải nhận được sự đồng thuận và hỗ trợ tích cực của tất cả các cấp, các ngành và các cấp chính quyền thì mới giải quyết được. Nợ xấu không phải là một vấn đề lịch sử mà còn là vấn đề gắn với đặc thù riêng của mối quan hệ ngân hàng - khách hàng. Chính vì vậy, việc xử lý nợ xấu không thể tiến hành theo kiểu chiến dịch, mà phải tuân thủ theo một qui trình chặt chẽ.

(i) Tuân thủ nguyên tắc xử lý rủi ro tín dụng do Basel đưa ra là phải công khai hóa rủi ro.

(ii) Trình phương án xử lý nợ xấu riêng trên cơ sở đặc điểm kinh doanh và đối tượng khách hàng của mình.

(iii) Trình phương án xử lý rủi ro đối với NHNN, trên cơ sở đó NHNN sẽ đưa ra kịch bản xử lý rủi ro. Kịch bản này phải chỉ ra được phí tổn xử lý thế nào, chính sách tiền tệ để hỗ trợ thanh khoản thế nào và công cụ gì được sử dụng: Thị trường mở? dự trữ bắt buộc? tái cấp vốn… Chính sách tài khóa phải tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu ra sao?

4.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với giáo dục đạo đức nghề nghiệp

Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất của bất cứ ngân hàng nào. Mặc dù sở hữu một lực lượng nhân lực hùng hậu nhưng theo khảo sát về chất lượng cán bộ của hệ thống NHTM Việt Nam thì chỉ có trên 65% trình độ đại học và trên đại học. Số cán bộ sử dụng thành thạo ngoại ngữ chỉ chiếm ít ỏi 1% - 2%; 4,1% cán bộ am hiểu về tin học. Điều này cho thấy số lượng cán bộ có trình độ cao, có năng lực trong việc áp dụng công nghệ ngân hàng cũng như khả năng cập nhật kiến thức và công việc chuyên môn qua các văn bản và các khoá đào tạo nước ngoài còn rất hạn chế.

Trình độ cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc được các khách hàng tốt. Cán bộ tín dụng tất yếu phải tiếp xúc với nhiều khách hàng ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Vì vậy, để có sự đánh giá chính xác về khách hàng họ phải thực sự rất am hiểu khách hàng, lĩnh vực ngành nghề mà

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/11/2022