• Thận trọng xử lý các khoản ủy thác cá nhân gửi tiền tại một ngân hàng thương mại cổ phần, thông qua việc thoái lãi và trích dự phòng, tổng cộng 382 tỷ đồng.
• Kiên trì và nhất quán trong việc xây dựng một bảng tổng kết tài sản lành mạnh và có tính thanh khoản cao; tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 và tỷ lệ an toàn vốn chung hợp nhất đạt lần lượt 10,2% và 14,7%; và tỷ lệ cho vay/huy động ổn định quanh mức 77%. Đặc biệt, ACB luôn giữ khoản mục trái phiếu chính phủ ở mức 13-15% tổng tài sản làm thanh khoản.
3.1.3.2. Tình hình tài chính tín dụng
* Kết quả hoạt động kinh doanh kinh doanh
Bảng 3.1. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng giai đoạn (2010-
2013)
ĐVT: triệu đồng
Năm 2010 | Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | |
Tổng doanh thu | 16,290,890 | 27,025,266 | 23,428,545 | 16,350,637 |
Tổng chi phí | 13,224,117 | 22,518,177 | 19,978,949 | 14,849,218 |
Tổng lợi nhuận trước thuế | 3,102,248 | 4,202,693 | 1,042,676 | 1,035,560 |
Lợi nhuận sau thuế | 2,334,794 | 3,207,841 | 784,040 | 826,493 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh Hưởng Của "nợ Xấu" Tới Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Hạn Chế Và Xử Lý Nợ Xấu
- Phân Tích Thực Trạng Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Tmcp Á Châu Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Cơ Cấu Nợ Phân Theo Nhóm Của Ngân Hàng Tmcp Á Châu (2010-2013)
- Tài Sản Đảm Bảo Của Ngân Hàng Acb Giai Đoạn (2010-2013)
- Quản Trị Dựa Trên Điều Kiện Về Bảo Đảm Tiền Vay
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2013
Trong giai đoạn 2010 -2013 tình hình kinh doanh của ngân hàng TMCP Á Châu có nhiều biến động. Theo kết quả của những số liệu đã được kiểm toán trong báo cáo thường niên qua các năm ta thấy, Năm 2010 đến năm 2011 kết quả kinh doanh của ngân hàng đạt được mức tăng trưởng vượt bậc, với tốc độ tăng doanh thu là 65,89% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 10,734,376 triệu đồng. với kết quả đó kéo theo lợi nhuận trước thuế tăng 35,47% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 1,100,445 triệu đồng và lợi nhuận sau thuế có mức tăng trưởng là 37,39% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 873,047 triệu đồng. Nguyên nhân của tình trạng này
là năm 2011 tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta khá 6,24% nên tình hình kinh doanh của ngân hàng cũng có những thành tựu đánh kể. Hơn nữa, kết quả đạt được tích cực là vì trong năm 2011 có 45 chi nhánh và phòng giao dịch mới được thành lập. Với sự mở rộng quy mô hoạt động đã đem lại kết quả khả quan trong hoat động kinh doanh của ACB năm 2011. Tuy nhiên đến năm 2012, kết quả kinh doanh có chiều hướng đi xuống thể hiện thông qua sự sụt giảm về doanh thu so với năm 2011 là 3.596.721 triệu đồng tương ứng với mức giảm là 13,31% kéo theo lợi nhuận trước thuế cũng giảm 75.19 % (tương ứng với 3.160.017 triệu đồng) và lợi nhuận sau thuế giảm 75.56% (tương ứng với 2.423.801 triệu đồng). Nguyên nhân của sự sụt giảm này là tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 giảm còn 5,25%, nên các khách hàng doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Năm 2013 là năm thấy được tình trạng kinh doanh trì trệ của ngân hàng do sự tác động từ những người nằm trong bộ máy quản lý của ngân hàng liên quan đến các vụ “bê bối “ tài chính và lần lượt bị bắt để điều tra những sai phạm trong kinh doanh. Điều này đã làm cho lượng khách hàng đến với ACB sụt giảm nghiêm trọng. Hơn nữa năm 2013 là năm mà bức tranh kinh tế của Việt Nam vẫn còn vô cùng ảm đạm, tốc độ tăng trường kinh tế chỉ đạt 5,4%, chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 6,04% thấp nhất trong 10 năm qua. Tỷ lệ lạm phát giảm mạnh chỉ còn 6,04%.
Chính sự tác động của môi trường bên ngoài lẫn môi trường bên trong làm cho kết quả kinh doanh của ngân hàng giảm mạnh. Cụ thể doanh thu năm 2013 giảm 30,21% so với năm 2012 (tương ứng với mức giảm tuyệt đối là 7.077.908 triệu đồng), điều này kéo theo lợi nhuận trước thuế cũng giảm 0,68% ( tương ứng với mức giảm là 7.116 triệu đồng) và lợi nhuận sau thuế giảm 5,41% ( tương ứng với mức giảm 42.453 triệu đồng).
* Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản có và vốn chủ sở hữu bình
quân
Bảng 3.2. Tỷ suất lợi nhuận của Ngân hàng TMCP Á Châu giai đoạn (2009-2013)
2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | |
ROE | 31,8% | 28,9% | 36,0% | 8,5% | 8,2% |
ROA | 2,1% | 1,7% | 1,7% | 0,5% | 0,6% |
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2013
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng có những biến động mạnh mẽ. Năm 2009 tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu rất cao, đạt 31,8% nhưng đến năm 2010 tỷ suất này giảm xuống còn 28,9%, đến năm 2011 còn số này lại tăng lên 36%. Nguyên nhân là vì trong năm 2011 lợi nhuận của ngân hàng đạt giá trị lớn nhất, nhờ kết quả mở rộng phạm vi hoạt động. Năm 2012 con số này đột ngột giảm mạnh, chỉ còn 8,5%, nguyên nhân là vì lợi nhuận mà ngân hàng thu được giảm sút nghiêm trọng. Đến năm 2013, tình hình kinh doanh của ngân hàng tiếp tục gặp nhiều khó khăn khi chịu tác động của suy giảm kinh tế lẫn niềm tin của khách hàng tác động đến, làm cho chỉ số này chỉ còn 8,2%. Điều này có nghĩa là cứ một đồng vốn chủ sở hữu ngân hàng tạo ra được 0,082 đồng lợi nhuận.
Còn đối với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của công ty cũng có những biến động, tuy nhiên biên độ giao động của chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Năm 2009 chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của ngân hàng đạt 2,1% nhưng đến năm 2010, 2011 con số này giảm xuống còn 1,7% và năm 2012 còn số này tiếp tục giảm mạnh, chỉ còn 0,5%. Đến năm 2013 tình hình có sự cải thiện là còn số này tăng lên và đạt 0,6%. Tuy nhiên sự tăng lên này không đáng kể, điều đó cho thấy cứ một đồng tài sản ngân hàng tạo ra được 0,006 đồng lợi nhuận.
3.2. Thực trạng nợ xấu tại ngân hàng TMCP Á Châu
3.2.1. Thực trạng nợ xấu tại ngân hàng TMCP Á Châu
Trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng chậm lại, nhiều doanh nghiệp rơi vào vòng xoáy hàng tồn kho và chi phí đầu vào tăng cao dẫn đến nợ xấu toàn hệ thống
ngân hàng bùng nổ năm 2012 và năm 2013. Điều này tác động lớn đến tình trạng nợ xấu của ACB hiện trong 2 năm qua tăng lên rất cao.
Là một đơn vị có dư nợ lớn, trong hoạt động tín dụng của ACB trong thời gian qua, dư nợ tín dụng của ACB đều tăng trưởng nhanh chóng và tuy nhiên ngân hàng chưa áp dụng các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn cho từng khoản vay, được thể hiện qua bảng 3.3.
Bảng 3.3. Tình hình nợ xấu của NHTMCP Á Châu giai đoạn (2010 – 2013)
ĐVT: Triệu đồng
Năm 2010 | Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | |
1.Tổng dư nợ | 87,195,105 | 102,860,941 | 102,801,799 | 107,190,021 |
2. Nợ xấu | 292,806 | 969,752 | 2,570,970 | 3,242,869 |
- Nợ dưới tiêu chuẩn | 64,759 | 326,758 | 747,218 | 656,978 |
- Nợ nghi ngờ | 58,399 | 345,655 | 673,361 | 463,358 |
- Nợ có khả năng mất vốn | 169,648 | 297,339 | 1,150,391 | 2,122,533 |
3. Nợ có khả năng mất vốn/Tổng dư nợ (%) | 0.19 | 0.29 | 1.12 | 1.98 |
4. Nợ xấu/Tổng dư nợ (%) | 0.34 | 0.94 | 2.50 | 3.03 |
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2010, 2011, 2012, 2013
Tỷ lệ nợ xấu của ACB biến động liên tục trong những năm gần đây. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong nước trong những năm tiếp theo, khiến nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện đúng cam kết trả nợ với ngân hàng. Với sự ảnh hưởng liên hoàn và tác động lâu dài như vậy mà trong năm 2010 của ngân hàng ACB là 292.806 triệu đồng, tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn là 0,19% và tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ là 0,34%.
Trong năm 2011, ACB đã không theo đuổi chính sách tăng trưởng tín dụng bền vững, coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng nên kết quả là chất lượng tín
dụng của ACB trong năm 2011 không được cải thiện mà càng xấu hơn khi lượng nợ xấu tăng so với năm 2010 là 231,19% (+ 676.946 triệu đồng), tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn là 0,29% và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ năm 2011 là 0,94%.
Năm 2012 ACB tiến hành điều chỉnh phân loại nợ theo Điều 6 và Điều 7 của Quyết định 493 làm cho lượng nợ xấu của ACB tăng lên chóng mặt. Hơn nữa bối cảnh kinh doanh của ngân hàng trong năm 2012 rất tồi tệ và ACB không nằm ngoài xu hướng chung đó, điều này cũng góp phần đẩy tỷ lê nợ xấu của ngân hàng tăng cao. Cụ thể lượng nợ xấu của ACB năm 2012 lại tiếp tục tăng lên thêm một con số nữa, cụ thể là 2.570.970 triệu đồng, tăng 1,601,218 tỷ đồng so với năm 2011 ( tương ứng với tốc độ tăng là 165,12%), tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn là 1,12% và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ năm này là 2,5%.
Năm 2013 tình hình chẳng cải thiện thêm mà còn ngày càng xấu đi khi số dư nợ lại tiếp tục tăng lên là 3.242.869 triệu đồng (tăng 26,13% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 671.899 triệu đồng). Đây là một bức tranh u ám trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng mặc dù chính phủ có đưa ra chính sách hỗ trợ lãi suất 4% cho các doanh nghiệp, cũng như mức hạ lãi suất cho vay nhưng số lượng nợ xấu lại ngày càng tăng lên. Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn là 1,98% tỷ lệ nợ xấu của ACB năm 2013 tiếp tục tăng lên 3,03% trong tổng dư nợ của ngân hàng.
Mặc dù so với tình hình nợ xấu của ACB qua năm ta thấy diễn biến nợ xấu của ACB đang có xu hướng ngày càng xấu đi. Tuy nhiên so với toàn hệ thống thì ACB vẫn là ngân hàng có mức nợ xấu chưa phải là lớn nhất. Cụ thể Vietcombank (VCB) là ngân hàng có quy mô nợ xấu lớn nhất với khối lượng nợ xấu là 29,997,853 triệu đồng, tiếp theo là ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) với khối lượng nợ xấu là 11,377,808 triệu đồng và xếp thứ ba là Viettinbank với khối lượng nợ xấu là 6,514,472 triệu đồng và kế đến là ngân hàng TMCP Á Châu (ACB). Những ngân hàng này là 3 trong số 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất cả nước. Do quy mô tín dụng của các ngân hàng này ở mức rất cao nên quy mô nợ xấu lớn là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên khối lượng nợ xấu chưa phản ánh đúng tính chất của nợ xấu nếu chúng ta không xem xét đến tỷ lệ nợ xấu. Trong các ngân hàng khảo sát thì tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng VCB là lớn nhất, với tỷ lệ nợ xấu là 10,94%. Tiếp theo là ngân hàng quốc tế (VIB) có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là 7,58%. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu lớn thứ 3, với tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là 7,26%. Tiếp đến là ngân hàng quân đôi có tỷ lệ nợ xấu lớn thứ 4 với 6,93% tổng dư nợ. Ngân hàng TMCP Á Châu có tỷ lệ nợ xấu xếp vị trí thứ 5 trong các ngân hàng khảo sát. Vậy nhín chung so với toàn hệ thống ngân hàng thì ACB chưa phải là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất, tuy nhiên với diễn biến nợ xấu như hiện tại của ACB là một dấu hiệu đáng báo động.
47
Bảng 3.4. So sánh nợ xấu của ngân hàng TMCP Á Châu với một số ngân hàng khác
SCB | VCB | VIB | SHB | MB | Viettinbank | BIDV | ACB | |
1.Tổng dư nợ | 110,565,799 | 274,314,124 | 35,238,515 | 75,134,791 | 87,277,908 | 376,288,968 | 350,469,408 | 107,190,021 |
Nợ đủ tiêu chuẩn | 108,175,889 | 244,316,271 | 32,567,638 | 69,678,554 | 81,233,044 | 369,774,496 | 339,091,600 | 100,980,134 |
Nợ cần chú ý | 779,957 | 22,792,525 | 1,676,958 | 2,352,446 | 3,898,791 | 2,744,180 | 2,538,341 | 2,967,018 |
Nợ dưới tiêu chuẩn | 169,732 | 2,338,109 | 527,883 | 144,391 | 653,037 | 515,442 | 3,946,370 | 656,978 |
Nợ nghi ngờ | 422,252 | 1,889,653 | 179,587 | 434,850 | 674,369 | 1,005,801 | 683,715 | 463,358 |
Nợ có khả năng mất vốn | 1,017,969 | 2,977,566 | 286,449 | 2,524,550 | 818,667 | 2,249,049 | 4,209,382 | 2,122,533 |
2. Nợ xấu | 2,389,910 | 29,997,853 | 2,670,877 | 5,456,237 | 6,044,864 | 6,514,472 | 11,377,808 | 6,209,887 |
3. Tỷ lệ nợ xấu (%) | 2.16 | 10.94 | 7.58 | 7.26 | 6.93 | 1.73 | 3.25 | 5.79 |
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2013 của các ngân hàng
Ngân hàng TMCP Á Châu điều chỉnh chính sách phân loại nợ xuất phát từ 3 nhu cầu chính: Thứ nhất, do nhu cầu nâng cao chất lượng quản trị nội bộ của bản thân Ngân hàng TMCP Á Châu; Thứ hai, do đòi hỏi của các tổ chức, đối tác, nhất là các tổ chức quốc tế; và ba là yêu cầu của NHNN. Trong đó, nhu cầu tự hoàn thiện về quản lý của ACB là yếu tố xuyên suốt của sự đổi mới này. Sau đây chúng ta tiến hành phân tích thực trạng nợ xấu của ngân hàng TMCP Á Châu theo các loại cơ cấu nợ. Cụ thể như sau:
3.2.1.1.Cơ cấu nợ theo nhóm
Phân loại nợ dựa trên tiêu chí cơ cấu nợ theo nhóm, nghĩa là ngân hàng căn cứ vào Điều 6 chủ yếu dựa vào tình trạng của khoản nợ, tức là lịch sử việc thanh toán tiền gốc, lãi của khách hàng cho khoản nợ đó theo lịch trả nợ đã thoả thuận khi vay, còn phân loại nợ theo Điều 7 sẽ dựa vào kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ. Theo đó định kỳ (hàng quý) các khách hàng sẽ được đánh giá và xếp vào 1 hạng nào đó, ví dụ là A, B hay C. Căn cứ kết quả xếp hạng tín dụng này, ngân hàng sẽ phân loại toàn bộ dư nợ của khách hàng vào 1 nhóm nợ, ví dụ nếu là AAA thì phân vào nhóm 1, nếu là CCC thì phân vào nhóm 3.
Sự khác biệt về mặt chất giữa phân loại theo Điều 6 và Điều 7 chính là hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Hệ thống này là phương pháp đánh giá định lượng, toàn diện và nhất quán về sức khỏe của khách hàng, trên cơ sở chấm điểm rất nhiều chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, không chỉ có tình trạng trả nợ (như Điều 6) mà còn đánh giá về các thông số tài chính, triển vọng kinh doanh, triển vọng ngành, chất lượng quản lý nội bộ... của khách hàng. Chính sách phân loại nợ dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ có mức độ chặt chẽ, khắt khe hơn so với Điều 6, nên trong thời gian đầu áp dụng sẽ làm tăng chi phí trích lập dự phòng. Tuy nhiên, hệ thống mới cũng sẽ nâng cao chất lượng quản trị tín dụng, giúp ACB có đủ năng lực kiểm soát tốt rủi ro trong những năm tiếp theo. Đây chính là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của ngân hàng. Nhóm 1 thuộc nhóm nợ đủ tiêu chuẩn, nhóm 2 thuộc nhóm nợ chú ý, nhóm 3 thuộc nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, Nhóm 4