biện pháp triển khai thụ động, kết quả tận thu nợ chưa hiệu quả, chưa đi sâu phân tích tình trạng thực tế của con nợ để có biện pháp xử lý thoả đáng.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực xử lý nợ xấu tuy đã được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm thực tế ở một vài lĩnh vực nhưng do khối lượng công việc quá nhiều, thời hạn hoàn thành yêu cầu gấp nên cán bộ tại chi nhánh chưa bố trí đủ thời gian cần thiết để nghiên cứu kỹ các văn bản chế độ mới ban hành của Nhà nước cũng như hướng dẫn của ngành về xử lý nợ xấu. Do đó, khi thực tế xử lý nợ xấu với những trường hợp đặc thù đôi lúc còn bỡ ngỡ, quá trình xử lý nợ kéo dài và không triệt để.
Thứ hai, do các cán bộ làm công tác xử lý nợ xấu tại Chi nhánh còn ít kinh nghiệm, chưa am hiểu hết các lĩnh vực kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng nên đôi lúc chưa lựa chọn đúng biện pháp xử lý nợ xấu đối với từng đối tượng khách hàng để đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, các nội dung về nợ xấu, các giải pháp xử lý nợ xấu, cũng như các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa nợ xấu phát sinh khá mới và phức tạp, chưa được áp dụng rộng rãi. Do đó, việc nhận thức, phổ biến và quán triệt rộng rãi, đầy đủ tới từng cán bộ cũng gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian.
2.5.2. Nguyên nhân của hạn chế:
2.5.2.1. Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, việc xử lý nợ xấu tại Chi nhánh trước đây chưa được quan tâm đúng mức, chưa chú trọng đến việc nghiên cứu, xây dựng bộ máy xử lý nợ xấu một cách hoàn thiện, hợp lý, quy kết trách nhiệm cụ thể với từng cá nhân về kết quả xử lý nợ xấu, do đó ý thức, trách nhiệm của cán bộ ngân hàng trong công tác xử lý chưa cao.
Thứ hai, trong quá trình tuyển dụng và đào tạo cho các cán bộ nhân viên ngân hàng, ngân hàng chưa quan tâm đến các kiến thức về xử lý rủi ro nợ xấu, do đó chưa trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng xử lý nợ xấu cho các cán bộ
Có thể bạn quan tâm!
- Dư Nợ Phân Theo Loại Hình Cấp Tín Dụng Giai Đoạn 2012-2014
- Bảng Thể Hiện Tỷ Lệ Dprr/tổng Dư Nợ Xấu Của Chi Nhánh Trong Giai Đoạn 2012 – 2014
- Xử Lý Nợ Xấu Bằng Biện Pháp Bán Nợ Cho Bên Thứ Ba:
- Cơ Cấu Lại Nợ Cho Khách Hàng Trên Cơ Sở Nguồn Thu Đảm Bảo, Chắc Chắn Và Phương Án Trả Nợ Cơ Cấu Khả Thi
- Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây - 11
- Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây - 12
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
nhân viên ngân hàng, nhất là trong hoàn cảnh nợ xấu phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp như hiện nay.
2.5.2.2. Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, các cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng tuy đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho các NHTM chủ động trong xử lý nợ xấu nhưng còn chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và chưa bao quát được hết các tình huống có khả năng phát sinh trên thực tế.
Ví dụ như quyền sở hữu, quyền sử dụng, cơ chế chuyển nhượng, phát mại tài sản, những nguyên tắc về định giá, đấu giá… Mặt khác, một số quy định, hướng dẫn của Chính phủ, NHNN, các Bộ ngành còn chưa sát với thực tế, có những yêu cầu khó có thể thực hiện được hoặc để thực hiện sẽ mất thời gian, làm chậm tiến độ xử lý nợ xấu của các NHTM, làm giảm bớt tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của NHTM... Những hạn chế này đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác xử lý nợ xấu của các ngân hàng.
Theo quy định, khi khách hàng không còn khả năng trả nợ, NHTM được toàn quyền bán tài sản bảo đảm nợ vay của khách hàng tại NHTM để xử lý (được quy định cụ thể trong hợp đồng vay vốn và hợp đồng bảo đảm tiền vay). Trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện thực hiện giao tài sản thì NHTM có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan trên địa bàn phối hợp cưỡng chế. Tuy nhiên, trên thực tế ngân hàng vẫn không thể tự quyết định xử lý phát mại tài sản đảm bảo nợ vay để thu hồi nợ vì nhiều lý do: thủ tục sang tên trước bạ khi ngân hàng xử lý tài sản đảm bảo tiền vay quy định phải có sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản nên các cơ quan có liên quan sẽ không làm được thủ tục sang tên trước bạ cho ngân hàng khi chủ sở hữu của tài sản không đồng ý cho phát mại tài sản; hoặc tài sản của các DNNN thường rất khó phát mại do đây là tài sản do Nhà nước giao cho doanh nghiệp nên để thu hồi nợ, các NHTM lại phải thông qua cấp chủ quản hoặc thông qua cơ quan tòa án để có được quyết định cho phát mại... Mặt khác, trong hợp đồng thế
66
chấp để vay vốn đã được cơ quan Công chứng xác nhận có nội dung “nếu Bên vay không trả nợ đúng hạn thì Ngân hàng tự phát mại tài sản để thu hồi vốn”. Tuy nhiên, khi phát mại tài sản, thì cơ quan Công chứng không công chứng hợp đồng mua bán, nên không làm được thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản cho người mua, buộc NHTM phải khởi kiện ra Toà án.
Ở Việt Nam, thị trường bất động sản chưa phát triển. Sự phối kết hợp giữa các ngành chưa chặt chẽ, nhiều nơi chính quyền địa phương chưa thực sự ủng hộ ngân hàng trong việc thu giữ và phát mại tài sản bảo đảm nợ vay. Sự cộng tác của cơ quan pháp luật đạt hiệu quả còn thấp. Nhiều trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng khách hàng không tự nguyện thi hành án, các cơ quan pháp luật cũng chưa có biện pháp cưỡng chế thi hành án để giúp ngân hàng thu hồi vốn.
Theo quy định hiện hành về việc sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro: Các NHTM phải phát mại tài sản đảm bảo nợ vay, áp dụng hết các biện pháp mà vẫn không thu hồi được nợ thì mới được sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý. Quy định này tuy chặt chẽ, hạn chế việc xử lý rủi ro tràn lan nhưng cũng gây ra khó khăn rất lớn cho các ngân hàng trong quá trình áp dụng. Cụ thể, tuy hướng dẫn điều kiện nhưng quy định không chỉ ra thế nào là các biện pháp xử lý nợ cuối cùng. Mặt khác, theo hướng dẫn, giá bán các tài sản bảo đảm nợ vay có thể cao hoặc thấp hơn giá trị nợ tồn đọng, phần chênh lệch được xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro của các NHTM. Trên thực tế, nợ xấu của chi nhánh tồn tại đã lâu, giá trị lớn, không được xử lý, trong khi nguồn dự phòng của ngân hàng lại hạn hẹp thì việc thực hiện quy định trên là rất khó khăn.
Khó khăn từ thi hành án cũng ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả xử lý nợ xấu của các NHTM. Theo luật Việt Nam, đất đai thuộc quyền sở hữu nhà nước. Theo đó cá nhân, tổ chức không được quyền mua bán đất đai. Vì vậy, các Toà án chỉ tuyên giao phần tài sản trên đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng, còn lại thuộc sở hữu nhà nước. Do đó, khi ngân hàng nắm giữ đất
là tài sản bảo đảm tiền vay thì ngân hàng phảỉ làm thủ tục thuê lại đất và ký hàng năm. Trong điều kiện đó phần tài sản trên đất thường rơi vào tình trạng xuống giá và khó khăn, hay khó luân chuyển. Mặt khác, rất nhiều trường hợp khi khởi kiện ra tòa, Tòa tuyên ngân hàng thắng kiện và buộc các con nợ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay đầy đủ cho ngân hàng nhưng ngân hàng rất khó khăn trong việc thu hồi nợ do cơ quan thi hành án không thi hành án hoặc thi hành án không được do con nợ hoàn toàn mất khả năng trả nợ.
Mặt khác, do thị trường mua bán nợ chưa phát triển, đối tác mua nợ của các ngân hàng hiện nay chủ yếu là Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam nên chưa tạo ra tính cạnh tranh trong việc mua bán nợ.
Thứ hai, thiếu sự kết hợp, hỗ trợ từ các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương các cấp trong quá trình xử lý nợ xấu của ngân hàng, thậm chí các cơ quan này còn gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý, thu hồi nợ xấu.
Một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh, không có khả năng trả nợ cho ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp đã có quyết định phá sản, giải thể nhưng tài sản không thể thanh lý được do không có đầy đủ giấy tờ hoặc tài sản không còn giá trị. Do vậy việc bán tài sản công khai trên thị trường và qua trung tâm bán đấu giá rất mất thời gian để xác định tính pháp lý của tài sản.
Việc xử lý nợ xấu liên quan đến nhiều đối tượng khách hàng (cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân….), nhiều lĩnh vực (sắp xếp lại doanh nghiệp, xử lý tài chính cho doanh nghiệp, xử lý tài sản bảo đảm...), nhiều thủ tục hành chính (đơn từ, xác nhận, chứng thực, đăng ký, thẩm định, quy hoạch, phê duyệt, giải trình…) trong khi các văn bản quy định về các vấn đề này chưa đồng bộ, rõ ràng, một số cơ quan chính quyền địa phương lại không tạo điều kiện cho ngân hàng trong giải quyết các công việc có liên quan nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ xử lý nợ xấu.
68
CHƯƠNG III: TĂNG CƯỜNG XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH SƠN TÂY
3.1. Định hướng xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây.
3.1.1. Mục tiêu phát triển của chi nhánh trong thời gian tới:
Kiểm soát tăng trưởng tín dụng, đảm bảo tăng trưởng tín dụng thấp hơn tăng trưởng huy động vốn từ 3-4%, tỷ lệ tín dụng trên huy động vốn thấp hơn 100% .
Cơ cấu lại danh mục tín dụng theo ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên như sản xuất, cho vay tiêu dùng...tập trung cho vay theo ngành nghề, khách hàng tốt, hướng tới đối tượng khách hàng cá nhân...
Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho các doanh nghiệp là khách hàng truyền thống, các lĩnh vực mà từ trước ngân hàng đã cho vay chiếm chủ yếu như thương mại, sản xuất(chiếm chủ yếu là sản xuất thép), …đồng thời mở rộng sang các lĩnh vực khác nữa như lĩnh vực cung cấp các sản phẩm dịch vụ thiết yếu để tăng nguồn thu và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Ngừng đầu tư và rút dần dư nợ từ các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc sản xuất kinh doanh không ổn định, tình hình tài chính không lành mạnh.
Phân tán rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng, không tập trung cấp tín dụng quá lớn cho một hoặc 1 nhóm khách hàng, một lĩnh vực ngành nghề.
Tiến hành tập huấn các cơ chế, nhiệm vụ, các kỹ năng phương pháp thẩm định, trích lập rủi ro, các biện pháp bảo đảm tiền vay.. tới tất cả các cán bộ tín dụng, nâng cao trình độ nhận thức và áp dụng thực tế để nâng cao chất lượng tín dụng.
Thực hiện tốt công tác quản lý tín dụng, phấn đấu giữ tỷ lệ nợ xấu dưới 2,5% tính đến hết năm 2016 và từ năm 2017, duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 2%.
3.1.2. Định hướng cơ bản về xử lý nợ xấu của chi nhánh trong thời gian tới:
Tiếp tục tăng cường công tác kiểm soát tăng trưởng tín dụng, chất lượng tín dụng, đảm bảo tăng trưởng bền vững, chất lượng, hiệu quả và an toàn, duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 2,5%.
Quyết liệt trong xử lý nợ xấu nội bảng, tăng cường công tác rà soát lại toàn bộ khả năng trả nợ và tài sản đảm bảo đối với các khách hàng có dư nợ xấu, đồng thời xây dựng biện pháp ứng xử kịp thời đối với từng khách hàng.
Tập trung nâng cao năng lực tài chính cho ngân hàng, trích lập dự phòng theo đúng quy định của nhà nước và đủ ứng phó khi nợ xấu xảy ra, tránh làm ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xử lý nợ xấu nhằm làm trong sạch bảng tổng kết tài sản, lành mạnh hoá tình hình tài chính của ngân hàng trên cơ sở các khoản nợ được phân loại tiến dần đến chuẩn mực quốc tế, Hội đồng Quản trị và Ban Tổng giám đốc BIDV đã quán triệt sâu sắc vấn đề này từ Hội sở chính đến các đơn vị thành viên, các chi nhánh trong đó có chi nhánh Sơn Tây, đã tập trung cao sức lực, trí tuệ, chỉ đạo kịp thời, sâu sát các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống tiến hành phân loại nợ, đánh giá lại giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, xác định số phải trích lập dự phòng rủi ro đối với từng khoản vay, từng khách hàng cũng như đẩy mạnh công tác cơ cấu lại tình hình tài chính của ngân hàng với hai biện pháp chủ yếu đó là xử lý nợ xấu và tăng vốn cho Ngân hàng.
Chủ động tạo nguồn vốn để xử lý các khoản nợ xấu bằng việc trích lập dự phòng rủi ro. Mục tiêu cấp bách và quan trọng hàng đầu trong chương trình cải cách hoạt động là: tập trung làm sạch bảng tổng kết tài sản thông qua việc xử lý cơ bản các khoản nợ xấu, tận thu hồi tối đa các khoản nợ đã chuyển hạch toán ngoại bảng để tăng năng lực tài chính của Ngân hàng.
Tích cực rà soát các khoản nợ để thực hiện bán nợ cho VAMC, một mặt làm sạch bảng tổng kết tài sản, lành mạnh các khoản tín dụng của ngân
70
hàng, mặt khác thu hồi vốn cho vay để bổ sung vào vốn kinh doanh cho ngân hàng, tránh tình trạng ứ đọng, lãng phí nguồn vốn và giảm chi phí quản lý các khoản nợ xấu cho ngân hàng.
Tăng cường sử dụng linh hoạt ,đa dạng các biện pháp xử lý nợ xấu một cách hợp lý nhất.
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây:
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy xử lý nợ xấu tại ngân hàng
Hiện nay, cơ cấu bộ máy tổ chức xử lý nợ xấu của chi nhánh còn chưa thực hoàn thiện, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong công tác xử lý nợ xấu. Công tác xử lý nợ xấu chưa được giao cho một bộ phận chuyên biệt, vẫn được thực hiện bởi các cán bộ kiêm nhiệm nhiều việc trong Phòng quản lý rủi ro, do đó tính chuyên sâu chưa cao. Do đó, ngân hàng cần hoàn thiện tổ chức bộ máy xử lý nợ xấu tại ngân hàng theo hướng chuyên môn hóa, có bộ phận xử lý nợ xấu tách bạch với các bộ phận kinh doanh để đảm bảo việc phân loại, xử lý nợ xấu được công tâm nhất. Đồng thời, ngân hàng phải có quy định trách nhiệm cụ thể của từng cán bộ với từng khoản vay, từng khoản nợ xấu để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ trong công tác xử lý nợ xấu.
3.2.2. Giám sát nợ xấu một cách có hiệu quả thông qua hoạt động phân tích, phân loại nợ xấu theo định kỳ
Việc giám sát nợ xấu cần được thực hiện giám sát với từng khoản vay và giám sát trên tổng thể danh mục tín dụng.
- Giám sát từng khoản vay một cách thường xuyên nhằm phát hiện những dấu hiệu cảnh báo sớm để đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời. Liên tục thực hiện chỉnh sửa và hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được sử dụng để đánh giá hiện trạng của khách hàng vay, là công cụ giám sát tín dụng quan trọng. Hệ thống chấm điểm tín dụng nội bộ cần theo dõi được những dấu hiệu cho thấy khả năng diễn biến xấu đi của khoản tín dụng cũng
như tình trạng khách hàng. Việc giám sát từng khoản vay cũng được thực hiện:
+ Việc rà soát và phân tích báo cáo tài chính cần được tiến hành một cách thường xuyên nhằm đánh giá đúng hoạt động của khách hàng vay vốn trong từng thời kỳ.
+ Thăm thực tế khách hàng: Để có một bức tranh rõ nét về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng thì bên cạnh việc phân tính các báo cáo tài chính của khách hàng, cán bộ quan hệ khách hàng cần phải thường xuyên đi thực tế khách hàng, từ đó có thể xác định được sự tồn tại và tình trạng thực tế của nhà xưởng, máy móc, thiết bị, tài sản đảm bảo cũng như nắm bắt được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Hơn nữa việc đi thực tế còn có thể giúp ngân hàng kiểm chứng lại chất lượng và tính chính xác của các báo cáo tài chính.
- Giám sát tổng thể danh mục tín dụng – phân tích tổng thể danh mục tín dụng nhằm phát hiện mức độ tập trung tín dụng, đánh giá chất lượng của danh mục tín dụng. Ban quản lý tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng thường xuyên tiến hành phân tích tổng thể danh mục tín dụng một cách định kỳ để có thể phát hiện sớm sự phát sinh của các khoản nợ xấu, trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời, tránh cho ngân hàng phải gánh chịu những biến động bất lợi trong hoạt động tín dụng do nợ xấu phát sinh.
Khi khoản nợ được xác định là nợ xấu, cán bộ tín dụng phải coi việc phân tích, phân loại nợ xấu là một công việc trọng yếu. Đối với từng khoản nợ xấu phải phân tích chi tiết thực trạng tình hình tài chính của khách hàng cũng như thực trạng tài sản bảo đảm nợ vay, tìm ra nguyên nhân dẫn đến phát sinh nợ xấu, khả năng tài chính của khách hàng cũng như việc phát mại tài sản đảm bảo có thể thu nợ được bao nhiêu, tìm hiểu rõ đạo đức và gia cảnh của con nợ... Từ đó, cán bộ tín dụng có thể biết được nguyên nhân phát sinh nợ xấu, khả năng khắc phục của khách hàng để đề xuất và thực hiện phương án giải quyết phù hợp cho từng đối tượng cụ thể.
72