Quy Định Hiện Hành Của Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Công Ty Và Những Khiếm Khuyết


điều chỉnh mà nó chỉ được xem xét như những yếu tố mang tính phong tục, tập quán, thông lệ.

Đến thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật về công ty ở Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của Luật Thương mại Pháp. Lần đầu tiên ở Việt Nam, góp vốn thành lập công ty được điều chỉnh bằng pháp luật trong “Dân luật thi hành tại tòa Nam án Bắc Kỳ” năm 1931, chương IX nói về khế ước lập hội, tiết V nói về hội buôn.

Đạo luật này chia công ty thành hai loại: Hội người và hội vốn. Trong hội người lại chia thành hội hợp doanh (công ty hợp doanh), hội hợp tư thương (công ty hợp vốn đơn giản) và hội đồng lợi (công ty nặc danh). Trong hội vốn chia thành hai loại là hội vô danh (công ty cổ phần) và hội hợp cổ (công ty hợp vốn đơn giản cổ phần) [23, tr.194].

Từ năm 1945, chính quyền dân chủ nhân dân ra đời, Nhà nước ta xây dựng hệ thống pháp luật kiểu mới của nhà nước dân chủ nhân dân. Song chính quyền non trẻ vừa mới ra đời đã phải đối phó ngay với sự quay trở lại của Thực dân Pháp, nên chưa thể xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong thực tế vấn áp dụng luật lệ cũ với nguyên tắc không trái với quyền lợi của nhân dân và nhà nước. Đó là “những quyền dân sự đều được bảo vệ khi người ta chỉ sử dụng nó đúng với quyền lợi của nhân dân”; “người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật chất thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không gây ra thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân” hoặc “khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch nhau thì khế ước coi như vô hiệu” [Sắc lệnh 97/SL ngày 22-5-1950].

Sau năm 1954, đất nước bị chia làm hai miền, ở miền Bắc bắt đầu tiến hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hòa. ở miền Nam, dưới chế độ Việt Nam cộng hòa phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, việc góp vốn thành lập công ty được hoạt động trên cơ sở Bộ luật dân sự, Luật Thương mại của Việt Nam cộng hòa. ở miền Bắc, Nhà


nước ta tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa (kế hoạch 3 năm 1957 - 1960). Hình thức công tư hợp doanh ra đời là sự duy trì một số doanh nghiệp có phần sở hữu tư nhân, phần sở hữu nhà nước. Về cơ bản công tư hợp doanh được coi là một hình thức để cải tạo đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Do đó, sự tồn tại của nó chỉ trong một thời gian ngắn và sau đó biến thành sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, tồn tại dưới các dạng xí nghiệp, cửa hàng quốc doanh, công ty mua bán tổng hợp, hợp tác xã … Công ty theo hình thức công tư hợp doanh dược coi là hình thức để thực hiện nhiệm vụ cải tạo nền kinh tế và tồn tại không lâu nên hầu như Nhà nước không có các văn bản pháp luật để điều chỉnh nó mà chỉ dùng chính sách để cải tạo.

Từ năm 1960, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, miền Bắc bắt đầu xây dựng một nền kinh tế tập trung - kế hoạch hóa với hai thành phần chủ yếu là quốc doanh và tập thể, trong đó quốc doanh giữ vai trò then chốt chi phối các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu mọi tư liệu sản xuất và vốn đã đề ra hệ thống chỉ tiêu bắt buộc trong tất cả các khâu: sản xuất, lưu thông, phân phốiThời kỳ này, trong hệ thống pháp luật nước ta cũng đã sử dụng thuật ngữ “công ty” để chỉ các đơn vị kinh tế chuyên hoạt động thương nghiệp, dịch vụ nhằm phần biệt với các đơn vị chuyên hoạt động sản xuất trực tiếp. Khái niệm “công ty” ở thời kỳ này không được hiểu đúng bản chất pháp lý mà để chỉ loại hình kinh doanh. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung các quan hệ liên kết, góp vốn không có điều kiện để phát triển và trong hệ thống pháp luật cũng không có luật công ty.

Như vậy, trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta không thừa nhận và không khuyến khích kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển trên cơ sở sự không thừa nhận sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Điều này khiến cho việc góp vốn thành lập công ty không thực hiện được và pháp luật cũng không có sự quy định về nó.


Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước tiến hành đổi mới về kinh tế, thực hiện mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ cơ chế cũ, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sự đổi mới này đã tạo tiền đề cho kinh tế tư nhân phát triển. Kinh tế tư nhân đã được thừa nhận và bảo hộ để phát triển. Đảng và Nhà nước không những thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân mà còn khuyến khích nó phát triển và khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư nhân là: khách quan, lâu dài và tích cực.

Chủ trương đổi mới của Đảng đã từng bước được cụ thể hoá bằng pháp luật và được thực hiện trên thực tế. Các văn bản pháp luật đầu tiên quy định về kinh tế tư nhân đã được ban hành như : Nghị định 27/HĐBT ngày 9-3- 1988 quy định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh trong sản xuất, dịch vụ, xây dựng và vận tải ; Nghị định 146/HĐBT ngày 24/9/1988, sửa đổi một số điều của Nghị định 27 về chính sách đổi với ba hình thức kinh tế tư nhân là hộ cá thể, hộ tiểu chủ và xí nghiệp tư doanh.

"Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” - Đây là quy định tại Điều 57, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, về một quyền cơ bản của công dân. Trong đó, nội dung quyền tự do kinh doanh của công dân bao gồm: Thành lập doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh, lựa chọn nghành nghề kinh doanh phù hợp, lựa chọn quy mô kinh doanh, tổ chức quản lý kinh doanh, từ chối các yêu cầu trái pháp luật của mọi cơ quan tổ chưc, cá nhân khác và có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Sự ghi nhận của Hiến pháp về quyền tự do kinh doanh là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện góp vốn thành lập công ty. Nhưng để thực hiện quyền đó trên thực tế, còn đòi hỏi nhiều điều kiện khác, trong đó sự quy định cụ thể của pháp luật là điều kiện tiên quyết. Pháp luật càng quy định rõ ràng, công khai, minh bạch thì quyền của người dân càng được đảm bảo. Với ý nghĩa đó, và nhằm ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền kinh doanh của công dân, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật tạo cơ sở pháp


lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân trong đó nòng cốt là quyền góp vốn thành lập công ty. Cụ thể như: Bộ luật Dân sự với quy định về tài sản, quyền sở hữu tư nhân về tài sản và bảo đảm quyền sở hữu tư nhân về tài sản; Luật Thương mại với những quy định về thương nhân, về hoạt động thương mại; và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp với các quy định cụ thể về nhiều loại hình công ty khác nhau, cho phép công dân được quyền tự do lựa chọn loại hình công ty phù hợp khi tham gia vào kinh doanh, các vấn đề về góp vốn thành lập công ty, tổ chức hoạt động của công ty.

Tại kỳ họp thứ VIII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Luật Công ty, ngày 21 tháng 12 năm 1990. Đây là mốc quan trọng trong quá trình phát triển của công ty tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Luật công ty được ban hành bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động đầu tư phát triển các công ty tư nhân. Chỉ từ sau khi luật này được ban hành thì các công ty tư nhân mới được thành lập nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên, sau 10 năm, việc thực thi Luật công ty đã đem lại nhiều dấu hiệu đáng mừng về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, nhưng cũng nảy sinh những hạn chế đòi hỏi phải sửa đổi thông thoáng hơn nữa để tạo điều kiện cho các công ty tư nhân phát triển. Điều này đòi hỏi, phải thay thế Luật Công ty bằng một văn bản mới tiến bộ và phù hợp hơn.

Luật Doanh nghiệp năm 1999 ra đời trên cơ sở rút kinh nghiệm sau nhiều năm thực hiện Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty đã thực sự tạo ra một bước cải cách mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.

Luật Doanh nghiệp được Quốc Hội thông qua ngày 12-6-1999, có hiệu lực từ ngày 1-1-2000 (gọi tắt là Luật Doanh nghiệp năm 1999), thay thế cho Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty đã có những quy định thông thoáng hơn từ việc thành lập doanh nghiệp đến những quy định về hoạt động và giải thể doanh nghiệp. Trước đây việc thành lập doanh nghiệp đòi hỏi


nhiều khâu qua nhiều đầu mối với thời gian rất lâu chưa kể các sách nhiễu hành chính. Với việc thực thi Luật doanh nghiệp năm 1999 thì thủ tục đơn giản hơn rất nhiều, chủ đầu tư không phải xin giấy phép đầu tư như trước đây mà chỉ cần xin giấy phép đăng ký kinh doanh tại một cơ quan đầu mối và sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong khoảng thời gian nhanh hơn, tối đa là 15 ngày sau khi nộp hồ sơ hợp lệ. Luật doanh nghiệp cũng quy định cụ thể về các loại hình doanh nghiệp gồm : Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh. Các vấn đề pháp lý về doanh nghiệp như : quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty, giải thể doanh nghiệpcũng đã được quy định cụ thể.

Với những quy định thông thoáng hơn, nên ngay sau khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 ra đời thì đã có hàng nghìn doanh nghiệp được thành lập trong cả nước. Đây là một con số chưa từng có và là một dấu hiệu cho thấy sự phát triển nhanh chóng của kinh tế tư nhân. Chỉ tính riêng trong năm 2000, số doanh nghiệp mới thành lập thuộc khu vực kinh tế tư nhân là 14.400 doanh nghiệp, nhiều gấp 4 lần năm 1999. Tổng số vốn huy động vào sản xuất kinh doanh đạt khoảng 24.000 tỉ đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 1999, trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành (1-1-2000). Tính riêng trong 3 tháng đầu năm 2001, có 4000 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn đăng ký khoảng 4.400 tỉ đồng, gấp 1,5 lần về số lượng doanh nghiệp và gấp 2 lần về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2000 (Theo Báo Đầu tư số 46 ngày 17/4/2001). Điều này cho thấy những tác động quan trọng từ những cải cách trong Luật Doanh nghiệp mới ban hành mang lại.

Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới thành lập chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chúng mang tính năng động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chúng được đầu tư đúng hướng, có nhịp độ tăng trưởng cao và có sự thích nghi và chuyển đổi nhanh. Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển năng


động của nền kinh tế và huy động được ngày càng lớn vốn đầu tư trong xã hội vào sản xuất kinh doanh.

Theo số liệu thống kê, đến tháng 11/2000, cả nước có khoảng 33.200 doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn, 15.480 hợp tác xã,

130.000 tổ hợp tác, tập đoàn sản xuất, hơn 100 trang trại và hơn 3 triệu hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp (Theo Báo Đầu tư số 111 ngày 14/11/2000). Theo báo cáo của VCCI, bình quân mỗi tháng có 1000 doanh nghiệp dân doanh thành lập và trong vài năm tới nếu cơ chế chính sách tiếp tục được cải cách, môi trường đầu tư được cải thiện thì với tốc độ thành lập doanh nghiệp được duy trì như vậy, tổng số doanh nghiệp dân doanh có thể lên tới con số 2 triệu. (Theo Báo Đầu tư số 49 ngày 24/4/2001)

Sau 5 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 1999, trước yêu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống các quy định của pháp luật về doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế, vẫn còn những quy định mang tính chất phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, những phân biệt đó thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, thủ tục, điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường; Thứ hai, cơ cấu, thẩm quyền và cách thức tổ chức quản lý nội bộ; Thứ ba, phạm vi kinh doanh, các quyền và mức độ tự chủ thực hiện các quyền kinh doanh; Thứ tư, mức độ và phương thức tổ chức lại kinh doanh; Thứ năm, chế độ và phương thức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp...

Bản thân từng luật riêng về doanh nghiệp cũng đã bộc lộ hạn chế, gây ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, không đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và một số Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định chủ trương xây dựng Luật thống nhất về doanh nghiệp.


Để góp phần tích cực vào việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần được xác định trong Hiến pháp, trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước; khai thác mạnh mẽ mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế, nhất là nguồn lực tài chính từ mọi thành phần kinh tế; khơi dậy tính năng động, hăng hái, tự tin của các doanh nghiệp, doanh nhân; nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp - một động lực quan trọng của sự phát triển; tạo khung pháp lý thống nhất, minh bạch, bình đẳng hơn cho mọi loại hình doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã được ban hành thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 1999.

Luật doanh nghiệp năm 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2006, được đánh giá là bước tiến bộ trong hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động của các loại hình doanh nghiệp. Ngoài việc xoá bỏ tư duy phân biệt đối xử theo thành phần kinh tế và nguồn gốc sở hữu thì điều quan trọng là tác động cải thiện thực chất về môi trường kinh doanh ở Việt Nam.

Luật Doanh nghiệp năm 2005 là bước nối tiếp của Luật Doanh nghiệp năm 1999 và có sự phát triển theo hướng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp trong việc đăng ký kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và cải thiện môi trường pháp lý liên quan đến các ngành nghề mà doanh nghiệp được phép hoạt động. Thực tế cho thấy, quá trình thực thi Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã có tác động đáng kể tới việc cải cách hành chính, cắt giảm thời gian thủ tục cho doanh nghiệp, thay đổi quan điểm tiếp cận với doanh nghiệp, kịp thời giải quyết vướng mắc, cung cấp, cập nhật thông tin cho doanh nghiệp...

Qua hơn 2 năm thi hành hai luật, số lượng doanh nghiệp thành lập tăng đáng kể, vốn đăng ký đầu tư tăng, giải quyết được nhiều công ăn việc làm... góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của Việt Nam.


Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp và vốn đăng ký


Năm 2006

2007

9 tháng năm 2008

Giá trị

Tăng so với 2005

Giá trị

Tăng so với 2006

Giá trị

Tăng so

với cùng kỳ

Số doanh

nghiệp

46.498

25%

58.908

26%

43.945

26%

Số vốn

(tỷ đồng)

155.871

2 lần

298.193

2 lần

335.601

27%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam - 9

Nguồn: Báo cáo của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư

Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, hệ thống pháp luật về công ty ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Các đạo luật như: Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Phá sản và nhiều đạo luật khác được ban hành và đi vào cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các loại hình công ty thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy vậy, hệ thống các quy định của pháp luật về doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế đòi hỏi phải khắc phục đặc biệt là pháp luật về góp vốn thành lập công ty.

2.2. QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY VÀ NHỮNG KHIẾM KHUYẾT

Ngày nay, trước hết, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), Nhà nước ta “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các tổ chức kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân”. Hiến pháp đã khẳng định: Công dân có quyền tự do kinh doanh heo quy định của pháp luật, công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Đồng thời Hiến pháp cũng quy định doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh,

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 16/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí