đó. Chặng hạn luật không quy định về quyền lưu cư có nghĩa là không có quyền lưu cư. Đây là tư tưởng bao trùm luật tài sản ở các nước thuộc Họ pháp luật La Mã - Đức. Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định: “Không vật quyền nào có thể được tạo lập khác hơn các vật quyền được quy định tại Bộ luật này hoặc các luật khác” [Điều 175].
Trong các vật quyền, quyền sở hữu - một vật quyền quan trọng nhất, vật quyền thống trị - bị tách khỏi tài sản, nếu hiểu theo logic các quy định kể từ Điều 173 cho tới Điều 284 của Bộ luật Dân sự này. Và dưỡng như chỉ có quyền sở hữu (mà theo quy định của Bộ luật này đã bao hàm cả quyền chiếm hữu) và quyền địa dịch được xem là các vật quyền tại đây. Tuy nhiên, còn có thể thấy, mặc dù không công khai công nhận các vật quyền, một số vật quyền không thể thiếu được của đời sống xã hội như quyền thuê mướn dài hạn, quyền cầm cố, thế chấp, quyền lưu cư vẫn được đề cập tới qua Bộ luật này. Các quy định tại các điều luật trên làm xáo trộn giữa các vật quyền trên bất đọng sản với các động sản vô hình. Các vật quyền trên bất động sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền thuê mướn dài hạn, quyền địa dịch, quyền thế chấp… trong khi đó các động sản vô hình gồm có hợp đồng, chứng khoán, phần mềm máy tính, lao động, dịch vụ sử dụng (điện thoại, điện…), quyền tác giả, nhãn hiệu thương phẩm…
Đương nhiên các quy định này ảnh hưởng lớn tới các quy định về góp vốn và điều khoản góp vốn trong hợp đồng thành lập công ty. Nhưng vấn đề đáng lưu tâm hơn là việc không quy định các đặc tính và hậu quả của các hình thức góp vốn. Việc không quy định các đặc tính và hậu quả của các hình thức góp vốn sẽ dẫn tới việc không có quy tắc áp dụng cho tranh chấp, trong khi Việt Nam không chấp nhận những nguồn pháp luật khác.
Các quy định về góp vốn của Việt Nam chưa đề cập tới góp vốn bằng tri thức. Đây có lẽ là một thiếu sót nữa khi chúng ta đã có chủ trương công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đã phần nào hướng tới nền kinh tế tri thức mà tại đó tri thức chiếm một vị trí hết sức quan trọng và trở thành yếu tố kinh tế trực tiếp.
Tóm lại, những hạn chế của các quy định về góp vốn thành lập công ty không chỉ do pháp luật về công ty nói chung và pháp luật về hợp đồng thành lập công ty nói riêng, mà còn do quan niệm về tài sản của pháp luật Việt Nam hiện nay. Việc không quy định cụ thể một số vật quyền gây hạn chế cho việc góp vốn bằng các vật quyền, nhất là góp vốn bằng quyền hưởng dụng như đã được phân tích ở Chương 1 của Luận án này. Hơn nữa pháp luật Việt Nam chưa đề cập đến góp vốn bằng tri thức và bằng công việc là những thiếu sót đáng kể đối với việc thành lập các công ty. Từ những rắc rối của khái niệm tài sản nêu trên, xét từ giá trị kinh tế của tài sản, có thể nói tất cả các vật chất liệu và các quyền mà có thể khai thác mang lại giá trị kinh tế hay có thể trị giá được bằng tiền đều có thể được coi là tài sản dùng để góp vốn.
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG KHIẾM KHUYẾT TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
Là một bộ phận của hệ thống pháp luật, pháp luật về góp vốn thành lập công ty đã, đang và sẽ gánh vác một nhiệm vụ quan trọng là thể chế đường lối của Đảng trong lĩnh vực kinh tế thành các quy tắc điều tiết trực tiếp các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành và phát triển, pháp luật về góp vốn thành lập công ty đã góp phần đáng kể vào việc xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, và nay đang chuyển mình để góp phần vươn tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thật vậy, Luật Công ty năm 1990 ra đời không chỉ góp phần xóa bỏ sự trông cậy hoàn toàn của người dân vào Nhà nước, xóa bỏ cái đói, cái nghèo, mà còn làm thay đỏi nếp nghĩ, nếp làm và bộ mặt của xã hội. Luật Doanh
nghiệp 1999 ra đời củng cố thêm một bước nữa nhằm tiến tới một xã hội công nghiệp. Và Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã tạo một bước tiến xa hơn nữa trong sự phát triển của pháp luật về góp vốn thành lập công ty. Tuy nhiên, pháp luật về góp vốn thành lập công ty vẫn còn mang nhiều hạn chế trong nó như đã được nghiên cứu ở trên. Do đó, tìm hiểu nguyên nhân chính của những hạn chế này là một công việc quan trọng góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập công ty. Nguyên nhân của những hạn chế đó bao gồm:
Có thể bạn quan tâm!
- Cấu Trúc Và Sự Phát Triển Của Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Công Ty
- Quy Định Hiện Hành Của Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Công Ty Và Những Khiếm Khuyết
- Động Sản Là Những Tài Sản Không Phải Là Bất Động Sản.# [Điều 174, Bộ Luật Dân Sự 2005]
- Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Công Ty
- Quan Niệm Lại Về Sản Nghiệp Thương Mại Và Bổ Sung Các Quy Định Chuyển Nhượng Sản Nghiệp Thương Mại
- Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
Thứ nhất, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp tồn tại trong một thời gian dài và còn ảnh hưởng tới hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
Là một nước thuộc địa, nửa phong kiến đứng lên giành độc lập, Việt Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng lại đất nước, với mục tiêu bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa. Do đó, Việt Nam đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp dựa trên nền kinh tế nông nghiệp và sự hỗ trợ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, mà tại đó chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất hầu như bị xóa bỏ. Lúc đó, tất cả đời sống đô thị (một trong những cơ sở của hoạt đọng thương mại hay kinh tế phi nông nghiệp) đều phụ thuộc vào chế độ phân phối theo “tem phiếu”. Nhà nước xen vào từng ngõ ngách trong đời sống con người và buộc các quan hệ kinh tế phụ thuộc vào các chỉ tiêu kê hoạch do một trung tâm của đời sống kinh tế quốc gia ban hành. Qua đó nói lên rằng, cơ sở kinh tế - xã hội cho việc hình thành và phát triển pháp luật về công ty tư nhân nói chung hay pháp luật về góp vốn thành lập công ty nói riêng không còn tồn tại. Trong nền kinh tế này chỉ có các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, xí nghiệp liên hợp và liên hiệp các xí nghiệp đều do nhà nước thành lập và quản
lý. Bản thân đơn vị kinh tế này chỉ có “quyền quản lý nghiệp vụ” đối với tài sản của nhà nước.
Đại hội Đảng Công sản Việt Nam lần thứ VI đã khởi xướng đường lối đổi mới. Cơ chế kinh tế được thay đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển dần sang cơ chế thị trường. Không còn con đường nào khác, việc chấp nhận kinh tế thị trường là một tất yếu [27, tr. 21]. Nhà nước công nhận các thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu mà trong đó có sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và tự do kinh doanh. Vì vậy, các lọa hình công ty tư nhân đã hồi sinh. Cơ sở kinh tế - xã hội để hình thành một chế định mới của pháp luật - chế định công ty - đã được xây dựng và ngày càng được củng cố vững chắc hơn.
Trong vòng khoảng 18 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam, với việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy đã có nhiều thành tựu, nhưng mới chỉ vượt qua thời kỳ khởi đầu. Do đó, việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và chế định góp vốn thành lập công ty nói riêng đang còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm. Hiện nay, có khá nhiều ý kiến của các chuyên gia và những người có trách nhiệm nhận định: “Pháp luật kinh tế chưa tạo sự đồng bộ các yếu tố của thị trường”; “tuy pháp luật kinh tế đã bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực nhưng một số lĩnh vực mới được quy định ở mức tối thiểu nhất”; và “pháp luật của giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý nên pháp luật kinh tế đang mang tính hỗn hợp các nguyên tắc của hai cơ chế quản lý kinh tế là kế hoạch hóa và kinh tế thị trường” [21, tr.27-53].
Thứ hai, việc xây dựng pháp luật thiếu một tư duy hệ thống, bao quát.
Tính logic và hệ thống là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của những hệ thống pháp luật hướng tới pháp điển hóa. Tuy nhiên, để bảo đảm được yếu tố này trong hoạt động xây dựng pháp luật, cần có hai điều kiện về nội dung, và về quy trình xây dựng pháp luật.
Về nội dung, cần phân loại và xác định tính chất của từng chế định. Hiện nay có một thực tế ở nước ta là nhiều văn bản pháp luật trộn lẫn giữa luật công và luật tư, do đó không làm rõ được nền tảng pháp lý hay nguyên tắc chi phối chế định được pháp điển hóa. Hơn nữa, nhiều đạo luật được ban hành không tự xác định được vị trí của mình trong hệ thống pháp luật, nên gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Cụ thể, Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời chưa tự xác định được công ty là một chế định thuộc lĩnh vực pháp luật nào. Xuất phát từ quan điểm hệ thống, người ta xếp công ty là một chế định của luật thương mại. Trong khi đó, mặc dù Luật Thương mại ra đời từ năm 1997, nhưng vẫn chỉ mang tính chất một đạo luật riêng rẽ quy định về mua bán hàng hóa, dịch vụ ma bán hàng hóa và dịch vụ thị trường do các thương nhân tiến hành. Nhà làm luật vẫn chưa nhấn mạnh được một vấn đề cốt yếu của luật thương mại là, công ty là các thương nhân bởi hình thức, là thành tố quan trọng của thương mại, của thị trường, và đạo luật thương mại phải xác định các nguyên tắc, các quy tắc cho việc xây dựng các chế định cụ thể của nó mà trong đó có công ty. Vì vậy, đến khi xây dựng Luật Doanh nghiệp 1999, Đạo luật nay lại cũng không tự gắn kết với Luật Thương mại 1997. Bản thân Luật Doanh nghiệp 1999 có nhiều quy định trái với các nguyên tắc đặt ra trong Luật Thương mại 1997. Do thiếu một tư duy hệ thống và bao quát, nên chúng ta đã làm cho hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật góp vốn thành lập công ty nói riêng trở nên manh mún, thiếu tính nhất quán, chưa kể đến tính thiếu cụ thể của các đạo luật mà làm phát sinh ra quá nhiều văn bản dưới luật quy định cả những vấn đề có tính trọng yếu có liên quan đến cả quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thứ ba, pháp luật về kinh tế tư nhân nói chung và pháp luật về công ty nói riêng mới được xây dựng ở Việt Nam sau nhiều năm bị triệt tiêu, nên không khỏi có sự lạc hậu, khiếm khuyết.
Một thời gian dài ở nước ta chỉ duy trì phát triển hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể còn thành phần kinh tế tư nhân bị cấm. Các hoạt động kinh tế không theo cơ chế thị trường mà từ sản xuất đến phân phối sản phẩm đều do Nhà nước điều hành. Từ môi trường kinh doanh đến pháp luật về kinh tế tư nhân đều không tồn tại. Chính vì vậy, hoạt động góp vốn để thành lập công ty không hề diễn ra, thậm chí bị cấm. Sau khi cải cách, mở cửa đến năm 1990, Việt Nam mới có Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, chính thức cho phép việc thành lập công ty tư nhân ở Việt Nam. Chính trong khoảng thời gian dài không có sự phát triển của kinh doanh và kinh tế tư nhân đã khiến cho văn hóa kinh doanh ở Việt Nam, pháp luật về kinh tế tư nhân, về góp vốn thành lập công ty ở Việt Nam gần như bắt đầu bằng con số không. Với hoàn cảnh đó đã khiến cho pháp luật về công ty, về góp vốn thành lập công ty của Việt Nam không tránh khỏi sự lạc hậu và khiếm khuyết.
Thứ tư, trong xây dựng pháp luật về công ty còn giằng co giữa các vấn đề “mở” hoặc “đóng” trong chính sách đối với công ty nói chung và sự phát triển kinh tế tư nhân nói riêng nên nhiều khi tạo ra sự mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, nhiều nhân tố mới đang hình thành nhưng đất nước vẫn còn ngổn ngang nhiều di sản của quá khứ, Nhà nước và nhân dân đang phải chung sống với nhau trong bối cảnh của nhiều nghịch lý còn tồn tại. Việt Nam đi nhanh hay chậm, tiến về phía tương lai hay vẫn luẩn quẩn với quá khứ, điều này tuỳ thuộc rất nhiều vào thái độ và phương pháp xử lý những nghịch lý này.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng tính cạnh tranh thấp luôn là điểm yếu cơ bản của kinh tế nhà nước.
Mặc dù Đảng khẳng định sự phát triển của kinh tế tư nhân là lâu dài và tích cực, tuy nhiên quan điểm lý luận về kinh tế tư nhân vẫn chưa hoàn toàn được giải quyết. Vẫn có những câu hỏi được đặt ra như: Phát triển kinh tế tư nhân tới cỡ nào? Kinh tế tư nhân lớn mạnh có làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa không? Thế nào là bóc lột? Các chủ doanh nghiệp tư nhân có được kết nạp vào Đảng Cộng sản không? Nhiều năm nay, giới lý luận Việt Nam vẫn không ngớt những cuộc bàn cãi. Có người bảo đúng, cũng có kẻ bảo sai và chắc rằng giới lý luận còn phải tranh luận nhiều năm nữa để đi tới quan điểm thống nhất. Chính vì còn tranh cãi về vấn đề lý luận nên trong xây dựng pháp luật về công ty còn giằng co giữa các vấn đề “mở” hoặc “đóng” trong chính sách đối với công ty nói chung và sự phát triển kinh tế tư nhân nói riêng nên nhiều khi tạo ra sự mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật.
Thứ năm, quan niệm về vốn góp thành lập công ty còn bó hẹp với hình thức là tài sản.
Trong quan niệm về hình thức vốn góp để thành lập công ty ở Việt Nam hiện nay vẫn bó hẹp với hình thức là tài sản. Nghĩa là cho rằng chỉ có tài sản mới có thể đem góp vốn để thành lập công ty còn nếu không phải tài sản thì không thể đem góp vốn. Đây là quan niệm quá bó hẹp và chưa thấy hết được các hình thức góp vốn khác như góp vốn bằng công sức, bằng tri thức. Chính quan niệm bó hẹp như vậy, đã khiến cho quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty cũng bó hẹp trong hình thức vốn góp là tài sản và trong luật sử dụng biện pháp liệt kê các dạng tài sản mặc dù có sự cho phép các bên thỏa thuận và ghi trong điều lệ về các tài sản khác để đề phòng việc liệt kê chưa đầy đủ. Tuy nhiên, việc liệt kê như vậy không tránh khỏi những hạn chế, đồng thời có thể dẫn tới sự khác biệt trong quan niệm về tài sản giữa Luật Doanh nghiệp với Bộ luật Dân sự.
Chương 3
CÁC KIẾN NGHị HOÀN THIỆN PHáP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VẾN THÀNH LẬP CÔNG TY
3.1. NHU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nói chung và pháp luật về góp vốn thành lập công ty ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Các đạo luật như: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Phá sản và nhiều đạo luật khác được ban hành và đi vào cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, góp phần hoàn thiện môi trường kinh doanh, giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy vậy, trước yêu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống các quy định của pháp luật về doanh nghiệp nói chung và pháp luật về góp vốn thành lập công ty nói riêng đã bộc lộ những hạn chế. Hệ thống các quy định của pháp luật về doanh nghiệp vẫn còn những quy định mang tính chất phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty còn mang nhiều khiếm khuyết. Pháp luật về góp vốn thành lập công ty liên quan đến nhiều ngành luật, nhiều văn bản pháp luật nhưng giữa chúng chưa có sự thống nhất, nhiều khi còn mâu thuẫn, chồng chéo. Nhiều quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty đã trở nên lạc hậu do sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Hiện nay có nhiều hình thức vốn góp mới mà pháp luật