39,3% có thư viện điện tử; trong đó, chỉ có 38,9% thư viện truyền thống và 40,3% thư viện điện tử có áp dụng các tiêu chuẩn thư viện hiện có ở Việt Nam hoặc trên thế giới [6].
Những hạn chế từ mối quan hệ nhà trường, gia đình và xã hội
Về lý thuyết, giáo dục gia đình tạo nền tảng cho giáo dục nhà trường. Giáo dục xã hội góp phần thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách toàn diện theo sự phát triển của xã hội. Giáo dục nhà trường có tác động mạnh nhất giúp cho SV hình thành năng lực ngăn ngừa, đấu tranh với những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường hoặc di truyền bẩm sinh. Nhưng trên thực tế, qua khảo sát, nhiều ý kiến thầy cô và SV một số trường đại học cho rằng đây là mối quan hệ lỏng lẻo. Bằng trực giác của mình SV chỉ thấy truyền thống tốt đẹp của cha ông để lại xa rời với thực tiễn cuộc sống thị trường bon chen, vụ lợi, mặt tiêu cực nhiều hơn tích cực từ xã hội hàng ngày dội vào nhà trường. Nhà trường chỉ quản lý SV những giờ trên lớp, thời gian còn lại tự do. Hiện tượng “đi nói dối cha, về nói dối chú” có ở không ít SV khi là cầu nối nhà trường và gia đình. Thậm chí có những SV bỏ học nhiều tháng mà gia đình vẫn không biết. SV phạm tội ngoài xã hội nhà trường cũng chẳng hay. Khi xem mục tiêu giáo dục “dạy chữ, dạy người” ở các trường cao đẳng, đại học để đạt tới mô thức “con ngoan, trò giỏi, công dân tốt” đòi hỏi mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cần phải được thắt chặt hơn.
3.2.2.3. Những mặt hạn chế từ phía sinh viên
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống cũng như việc xây dựng hệ giá trị đạo đức nhân cách mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Bên cạnh đại đa số SV biết phát huy các GTVH tinh thần TTDT như lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, cố gắng học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp thì vẫn còn một bộ phận SV có biểu hiện an phận thủ thường hoặc chạy theo thị hiếu không lành mạnh, ngại khó, ngại khổ, lười lao động, lười học tập, mê tín dị đoan, sống thực dụng, ích kỷ, buông thả, sa đọa, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Báo cáo
chính trị đại hội IX Hội sinh viên Việt nam thẳng thắn chỉ rõ vấn đề “Một bộ phận sinh viên chưa xác định đúng mục tiêu, động cơ học tập, thiếu ý chí vươn lên, lệch lạc về lối sống, mắc phải tệ nạn xã hội, dễ bị lôi kéo vào những mục đích xấu, thậm chí vi phạm pháp luật. Thực trạng đó có trách nhiệm của Hội sinh viên các cấp” [35]. Không ít SV còn thiếu sự nỗ lực vươn lên trong học tập, chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo, nhất là về đổi mới phương pháp học tập. “…có 64% sinh viên chưa tìm được phương pháp học tập phù hợp với đặc điểm nhận thức cá nhân, 36 % sinh viên bộc lộ phong cách thụ động, ngại nêu lên thắc mắc mà chỉ thụ động nghe giảng…” [7].
Khi được hỏi về đánh giá hành vi nhân cách của chính bản thân mình, đáng chú ý có tới 14% trong tổng số SV thẳng thắn trả lời nhân cách chưa tốt và 5% khó đánh giá về nhân cách của chính bản thân mình [Xem bảng 3. Bạn tự đánh giá nhân cách của mình thế nào?].
Nói NCSV còn có vấn đề, là bởi những hạn chế, yếu kém từ chính bản thân SV. Sinh viên và việc tự học, tự giáo dục nói chung, giáo dục GTVH tinh thần TTDT và rèn luyện nhân cách còn thiếu một “ý thức” cần thiết. Một du học sinh tâm sự trên trang fecebook cá nhân: “Tôi nghĩ về bản thân, về sự ích kỷ mà đã đến lúc tôi cần nhìn lại. Ngày ở Việt Nam, khi là một sinh viên tốt nghiệp ra trường, rồi đi làm, tôi chỉ sống cho bản thân mình. Hầu như tôi chưa làm đúng nghĩa vụ và quyền lợi công dân mà xã hội đã cho và tạo cơ hội”. Trao đổi về vấn đề này, Nguyễn Thị Thiên Kiều sinh viên năm thứ ba, đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp cho rằng: “Tất cả đều chưa quá muộn, là sinh viên chúng ta hãy tăng thêm “ý thức” cho hành trang bước vào đời. Từ những việc nhỏ hãy tự khép mình vào khuôn khổ như hãy vứt rác đúng nơi quy định, hãy nói những điều tốt đẹp thay vì văng tục, xa hơn nữa hãy quan tâm đến những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội đang hàng ngày diễn ra xung quanh chúng ta. Tôi tin rằng rồi sẽ có ngày chúng ta tự hào mà nói rằng “Tôi là người Việt Nam có ý thức” [Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp].
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Giáo Dục Giá Trị Văn Hóa Tinh Thần Truyền Thống Dân Tộc Với Việc Hình Thành, Phát Triển Nhân Cách Sinh Viên Việt Nam Hiện Nay
- Những Kết Quả Đạt Được Từ Phía Sinh Viên
- Những Mặt Hạn Chế Của Giáo Dục Giá Trị Văn Hóa Tinh Thần Truyền Thống Dân Tộc Tác Động, Ảnh Hưởng Đến Nhân Cách Sinh Viên
- Đảm Bảo Sự Thống Nhất Giữa Truyền Thống Với Hiện Đại, Kế Thừa Với Đổi Mới Trong Giáo Dục Giá Trị Văn Hóa Tinh Thần Truyền Thống Dân Tộc Cho
- Phát Huy Vai Trò Chủ Thể Giáo Dục Của Nhà Trường Trong Giáo Dục Giá Trị Văn Hóa Tinh Thần Truyền Thống Dân Tộc Với Việc Hình Thành, Phát Triển Nhân
- Phát Huy Vai Trò Tổ Chức Đoàn Và Hội Sinh Viên Nhà Trường Trong Giáo Dục Giá Trị Văn Hóa Tinh Thần Truyền Thống Dân Tộc Chosinh Viên
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Quá trình học tập không chỉ là quá trình hình thành tri thức lý luận, tri thức khoa học mà đồng thời còn là quá trình rèn luyện, bồi dưỡng những NC tốt đẹp trong mỗi con người SV. Đó là vấn đề “cần” nhưng chưa “đủ” trong một bộ phận không nhỏ sinh viên ngày nay.
3.2.3. Nguyên nhân của kết quả đạt được và những hạn chế
3.2.3.1. Nguyên nhân của kết quả đạt được
Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong giáo dục GTVH tinh thần TTDT với việc hình thành, phát triển nhân cách SV những năm qua trước hết xuất phát từ chính vai trò của GTVH tinh thần TTDT. Cơ sở lí luận của văn hóa truyền thống và nhân cách đã làm rõ vị trí, vai trò của GTVH tinh thần TTDT đối với sự hình thành và phát triển nhân cách SV. Điều rút ra được, đó là khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người biết dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm lịch sử, có khả năng tạo dựng lên đời sống văn hóa tinh thần và biết tiếp thu, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những giá trị văn hóa tinh thần đó đã trở thành những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc ta. Vì vậy, có thể coi GTVH tinh thần TTDT Việt Nam như một tác nhân khách quan rất quan trọng tác động ảnh hưởng trực tiếp đến NCSV Việt Nam.
Trong những năm qua, nhận thức về giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho thế hệ trẻ nói chung và SV nói riêng trong Đảng, xã hội đã có sự chuyển biến nhất định. Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về GTVH tinh thần TTDT lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội và tới các trường cao đẳng, đại học. Tư tưởng, đạo đức, lối sống của người Việt Nam thích ứng dần với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước hội nhập mở cửa. Nguồn lực con người ngày càng được phát huy, giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế từng bước được mở rộng. Các trường cao đẳng, đại học đã có những cố gắng nhất định thể hiện vai trò chủ thể của giáo dục GTVH tinh thần TTDT đối với sự hình thành và phát triển NCSV.
Đại đa số SV đã có những hiểu biết cơ bản về vai trò của giáo dục GTVH tinh thần TTDT đối với sự hình thành và phát triển NCSV. Điểm mới trong nhận thức của SV trong hoàn cảnh lịch sử mới là yêu nước một cách duy lý hơn, không chỉ đơn thuần là cảm tình yêu nước mà là yêu nước với thái độ của người làm chủ đất nước, biết cách làm chủ bằng tri thức của mình. Do đó SV có ý thức nhất định về việc học tập để trang bị tri thức về GTVH tinh thần TTDT, để kế thừa và phát huy giá trị đó vào xây dựng phát triển nhân cách SV truyền thống và hiện đại trong giai đoạn hiện nay.
3.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế yếu kém trong giáo dục GTVH tinh thần TTDT với việc hình thành, phát triển NCSV trong những năm qua có những nguyên nhân của nó, xuất phát từ cả phía chủ thể và khách thể.
Thứ nhất, từ vai trò chủ thể giáo dục
Nhận thức của các cấp lãnh đạo về vai trò của giáo dục GTVH tinh thần TTDT với việc hình thành, phát triển NCSV đã có chuyển biến nhất định. Tuy nhiên, việc hiện thức hóa nó trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế hiện nay thì vẫn chưa thật đầy đủ. Nhận thức về xây dựng và phát triển đạo đức, nhân cách thế hệ trẻ nói chung, SV nói riêng còn mang tính chủ quan, tiêu chuẩn còn xa thực tế, khó thực hiện trong thực tiễn. Khi mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng thì giáo dục về GTVH tinh thần TTDT trong các trường đại học, cao đẳng còn bị xem nhẹ hơn.
Công tác chỉ đạo, tiến hành giáo dục GTVH tinh thần TTDT của các trường cao đẳng, đại học còn nhiều hạn chế, bất cập về nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức; chưa thường xuyên khơi dậy được tình cảm, niềm tin, ý thức trách nhiệm của SV. Các hoạt động có tính chất tuyên truyền, giáo dục truyền thống của tổ chức Đoàn, Hội SV có lúc, có nơi chưa thiết thực, còn nặng về hình thức, thiếu tính bền vững và nề nếp.
Thứ hai, từ bản thân SV với tư cách đối tượng giáo dục
Một bộ phận SV không tự ý thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục GTVH tinh thần TTDT với việc hình thành, phát triển NCSV, chỉ thấy hiện tại mà không thấy quá khứ và sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại và hướng tới tương lai. Từ nhận thức lệch lạc dẫn đến một bộ phận SV thiếu sự rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu, dễ bị lôi kéo, kích động theo lối sống thực dụng, buông thả, coi thường đạo lý và pháp luật, quay lưng lại với truyền thống.
Thứ ba, tác động, ảnh hưởng từ hệ luỵ của Internet và mạng xã hội.
Bên cạnh tiện ích, Internet và viễn thông nói chung, mạng xã hội và điện thoại di động nói riêng để lại hệ lụy như: phát tán tài liệu, bài viết, hình ảnh, clip… có nội dung không lành mạnh, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc là nguyên nhân góp phần tạo nên thói hư tật xấu cho một bộ phận giới trẻ trong đó có SV thời gian qua…Mạng xã hội và viễn thông còn bị kẻ địch lợi dụng để thực hiện “diễn biến hòa bình”, xuyên tạc bóp méo sự thật lịch sử, nói xấu chế độ, Đảng và nhà nước ta...đã tác động xấu đến một bộ phận giới trẻ trong đó có SV. Đây thực sự là một thách thức trong giáo dục GTVH tinh thần TTDT với việc hình thành, phát triển NCSV Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường
Bên cạnh những mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó gây tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc, đến đạo đức, nhân cách, lối sống con người. “Kinh tế thị trường đã làm bung ra và phơi bày mọi mối quan hệ xã hội, mọi bí ẩn ẩn giấu lâu nay. Nó đặt lại vấn đề một cách cơ bản từ quan niệm lý luận đến xây dựng con người, đạo đức, lối sống, nhân cách” [5].
Nhà nước có chủ trương mở rộng ngành nghề đào tạo và xuất hiện các chủ thể đào tạo mới là hợp lý trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên từ đây cũng nảy sinh cách hạch toán lợi ích lấn át mục đích đào tạo. Những hiện tượng chạy theo đồng tiền mà không tính đến chất lượng giáo dục đã xuất hiện trong một bộ phận cán bộ quản lý và giáo viên giảng dạy. Một bộ phận
SV do theo đuổi lối sống ăn chơi không biết lựa chọn, sàng lọc, bỏ bê việc học lao vào những cuộc tình, những toan tính không lành mạnh, lối sống lập dị, đua đòi đánh mất bản sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tuy nhiên, từ phân tích trên cần chỉ rõ nguyên nhân của những nguyên nhân hạn chế yếu kém trong giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV những năm qua phần chủ yếu là thuộc về chủ thể giáo dục. Công bằng mà nói, không thể đổ lỗi tất cả những hạn chế yếu kém và nguyên nhân của nó là thuộc về trách nhiệm các trường cao đẳng, đại học. Bởi việc hoạch định chiến lược, đường lối, chủ trương, chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới giáo dục đào tạo là thuộc về Đảng, nhà nước và trực tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tác giả đồng tình với ý kiến “Làm gì thì điều cuối cùng cũng là con người, chủ thể giáo dục” [69]. Chủ thể giáo dục ở đây gồm 5 ngôi theo thứ tự tầm quan trọng, đó là: Nhà nước, nhà trường, nhà giáo, nhà mẹ (gia đình), nhà học (người học). Cả 5 chủ thể này phải làm công việc của mình và làm tốt công việc của mình thì bất cứ Nghị quyết nào, bất cứ Luật nào ra mà tốt thì nền giáo dục sẽ tốt.
Vấn đề đặt ra hiện nay, chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa cả về nhận thức, tầm nhìn, chiến lược giáo dục, về bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Do đó, yêu cầu của giáo dục GTVH tinh thần TTDT với việc hình thành và phát triển NCSV Việt Nam hiện nay đòi hỏi các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cả xã hội, nhất là vai trò chủ thể giáo dục của các trường cao đẳng, đại học cần được tăng cường, phát huy nhiều hơn nữa.
Kết luận chương 3
Giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV chịu sự ảnh hưởng, tác động của các nhân tố chủ quan là nhà trường, tổ chức Đoàn, Hội sinh viên, gia đình và sinh viên; các nhân tố khách quan là yếu tố lịch sử, truyền thống dân tộc, môi trường kinh tế xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa của đất nước. Giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV trong những năm gần đây đã
đạt được những kết quả nhất định. Vai trò chủ thể giáo dục GTVH tinh thần TTDT của Đảng, Nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội đã được phát huy. Sự chủ động, tự giác của SV trong học tập, tiếp thu GTVH tinh thần TTDT đã có ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành, phát triển nhân cách SV.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác giáo dục GTVH tinh thần TTDT vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế cả về nhận thức, tư duy, hành động, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục và thiếu một sự kết gắn cần thiết giữa các môi trường giáo dục. Một bộ phận SV chưa có ý thức rèn luyện, còn có lối sống tự do buông thả, coi thường pháp luật. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, bất cập. Nhiều trường cao đẳng, đại học vẫn chưa đáp ứng được điều kiện cơ sở vật chất, tiêu chí môi trường văn hóa học đường. Kết quả phòng chống tiêu cực trong trường học còn nhiều hạn chế…
Thực tiễn giáo dục GTVH tinh thần TTDT trong việc hình thành và phát triển NCSV hiện nay cho thấy những vấn đề đang đặt ra. Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV với những hạn chế, bất cập từ phía gia đình, nhà trường, xã hội. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV với những hạn chế về mặt nhận thức và thái độ của một bộ phận SV trong việc giữ gìn và phát huy các GTVH tinh thần TTDT. Những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa tới việc giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV. Những mâu thuẫn, bất cập trên đặt ra yêu cầu cần phải xác định rõ hơn quan điểm định hướng và một hệ thống giải pháp đáp ứng, cùng với sự quan tâm, nỗ lực nhiều hơn nữa của các cấp lãnh đạo, của nhà trường, của các tổ chức đoàn thể chính trị, của sinh viên và cả xã hội.
Chương 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
VỚI VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VỚI VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Quá trình giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc phải lấy hoạt động của sinh viên làm trung tâm, giảng viên làm chủ đạo
Giáo dục là quá trình kết hợp vai trò chủ đạo của giảng viên với sự tự giác học tập, rèn luyện của SV nhằm hình thành ý thức, tính cách, hành vi thói quen đạo đức với các chuẩn mực xã hội quy định. NCSV được hình thành qua hai con đường cơ bản là con đường dạy học trên giảng đường và con đường hoạt động ngoài giảng đường. Giáo dục GTVH Tinh thần TTDT là một bộ phận cần thiết, cấu thành của quá trình hình thành, phát triển nhân cách cho SV cả trên giảng đường và hoạt động ngoài giảng đường.
Sự khác biệt giữa giáo dục phổ thông và giáo dục đại học là ở chỗ, giáo dục phổ thông theo lối tư duy tiêu chuẩn đã có trong sách vở, thiên về lý thuyết, một bên là giáo dục đại học thiên về phương pháp nghiên cứu, chỉ đúng sai, chứng minh, khẳng định chân lý. Với một phương pháp như vậy, cách học của SV cần phải gắn kết với thực tiễn, thông qua các hành động thực tiễn, với vai trò dẫn dắt của giảng viên.
Xu hướng chung của đổi mới phương pháp giáo dục đại học hiện nay là theo quan điểm lấy SV làm trung tâm. Thực chất của quan điểm này là hệ phương pháp dạy - học tích cực hay còn gọi là hệ phương pháp dạy - tự học, được xem như là một hệ thống phương pháp dạy học có thể đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết