Những Kết Quả Đạt Được Từ Phía Sinh Viên


riêng. Theo thống kê của Hội khuyến học Việt Nam, tính đến ngày 25/12/2013 thì số hội viên là 10.308.738 người, số chi hội là 137.957, số ban khuyến học là 75.150, số gia đình hiếu học là 3.787.519, số dòng họ hiếu học là 36.319, số cộng đồng khuyến học là 29.410. Đây là những con số rất ấn tượng.

Mọi hoạt động khuyến học, khuyến tài đều hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội học tập (Quyết định 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020”). Về thực chất đây là một chủ trương lớn nhằm phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, làm cho mỗi người dân thấy được tầm quan trọng của việc học và nỗ lực học tập, khuyến khích học sinh, SV không ngừng học tập, rèn luyện vươn lên.

Gia đình Việt Nam luôn gắn liền với dòng họ. Dòng họ có tác dụng gắn kết mọi gia đình trong việc duy trì và phát huy những truyền thống tốt đẹp của họ tộc, động viên các gia đình giữ gìn gia phong, thực hiện gia giáo. Trong lịch sử dân tộc ta đã có biết bao gia đình vinh hiển, dòng họ khoa bảng lưu danh mãi mãi. Hầu như mọi gia đình đều ý thức được việc đề cao trách nhiệm trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình của mình. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đối với SV khác với học sinh phổ thông, nhưng không có nghĩa gia đình không có vai trò, ảnh hưởng gì đến đời sống SV. Có thể nói tình cảm gia đình là thứ rất quý giá đối với mỗi con người, gia đình thường là tổ ấm, điểm tựa của mỗi người, nhất là với đời sống tinh thần của họ. Theo kết quả khảo sát, ý kiến của SV về tác động của môi trường giáo dục và truyền thống gia đình đối với bản thân họ là rất quan trọng [xem kết quả khảo sát, bảng 8 phụ lục: Tác động của môi trường giáo dục và truyền thống gia đình;bảng 9 phụ lục: Mối liên hệ và tham vấn ý kiến gia đình của bạn; bảng 10 phụ lục: Tham gia của bạn về hoạt động thờ cúng tổ tiên, thăm hỏi họ hàng].

Phong trào thi đua xây dựng gia đình, dòng họ hiếu học có sức lan tỏa rộng khắp với nhiều hình thức phong phú, chất lượng ngày càng được nâng cao, có ý nghĩa to lớn trong việc động viên người người, nhà nhà thi đua học


tập, góp phần chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Dòng họ hiếu học là xây dựng cộng đồng có quan hệ huyết thống, là chỗ dựa về tình cảm, về truyền thống dòng họ, đoàn kết, hỗ trợ, giúp đỡ nhau xây dựng đời sống văn hóa, văn minh; qua đó, mỗi gia đình đều phấn đấu trở thành gia đình hiếu học để vinh danh cho họ tộc mình. Đến nay, cả nước đã có hơn 5 triệu gia đình hiếu học và hơn 50 nghìn dòng họ khuyến học được cấp giấy chứng nhận cùng với hàng nghìn cụm dân cư khuyến học, thể hiện truyền thống hiếu học vốn có từ ngàn xưa của dân tộc tiếp tục được giữ gìn, phát huy và đã trở thành nét đẹp văn hóa Việt Nam ngày nay.

Cùng với việc tôn vinh, khen thưởng các thủ khoa hàng năm của Nhà nước, các địa phương, các trường cao đẳng, đại học, các cuộc thi “Nhân tài đất Việt”, “Giải thưởng Tài năng Khoa học trẻ Việt Nam” được tổ chức hàng năm, đã phát hiện nhiều SV tài năng, là những nhà khoa học có triển vọng. Đặc biệt, năm 2013, cả 36/36 lượt học sinh tham dự các kỳ thi Olympic đều đoạt giải. Riêng đội tuyển Olympic quốc tế môn Toán học đã vươn lên xếp thứ 7 trong số 97 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự, tăng 2 bậc so với năm 2012. Việt Nam tiếp tục đạt thành tích cao trong số các nước tham dự cuộc thi Sáng tạo khoa học - kỹ thuật quốc tế. Điều muốn nói trong số các em đoạt giải tại các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, các em đạt điểm thi đại học xuất sắc, nhiều em có hoàn cảnh rất khó khăn như em Trần Thị Thu Hương - học sinh trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, tỉnh Nam Định, em Đinh Thị Huyền - học sinh trường Trung học phổ thông huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, em Ngô Phi Long ở tỉnh miền núi Sơn La đã xuất sắc 2 năm liền đạt Huy chương vàng Olympic khu vực và quốc tế…Và còn rất nhiều những tấm gương HSSV nghèo vượt khó, những người trẻ tràn đầy nghị lực sống, những ông bố, bà mẹ hết lòng vì sự học hành của con cái biết vượt qua hoàn cảnh để chiến thắng. Tới dự và phát biểu tại lễ tuyên dương HSSV đoạt giải Olympic quốc tế và đạt điểm xuất sắc nhất các khối thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2013, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh “Chúng ta tin tưởng rằng, với truyền


thống hiếu học, với phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, đất nước ta sẽ có ngày càng nhiều học sinh, sinh viên xuất sắc, nhiều học sinh, sinh viên đoạt giải thưởng cao trong các cuộc thi khu vực và quốc tế. Chúng ta sẽ ngày càng có nhiều nhân tài làm giàu thêm “nguyên khí quốc gia”, làm rạng danh non sông đất nước. Nhất định trí tuệ con người Việt Nam sẽ tiếp tục tỏa sáng”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trên thực tế, hầu hết SV đều ý thức được truyền thống hiếu học của dân tộc cần phát huy; ý thức tổ ấm gia đình và trách nhiệm xây dựng cho gia đình mình thực sự là một gia đình hạnh phúc bằng sự cố gắng học tập, rèn luyện để trở thành người tốt.

3.2.1.2. Những kết quả đạt được từ phía sinh viên

Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay - 12

Trên cơ sở phân tích kết quả khảo sát với việc xử lý thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, chúng tôi cho rằng việc giáo dục GTVH tinh thần TTDT ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển NCSV Việt Nam trong những năm gần đây đã thu được những kết quả tích cực từ phía SV - đối tượng giáo dục.

Thứ nhất, nhận thức của sinh viên về nhân cách, về vai trò ảnh hưởng của giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc đối với nhân cách Từ những tác động tích cực của những nhân tố khách quan, chủ quan

(3.1) và kết quả giáo dục GTVH tinh thần TTDT (3.2.1) mà nhận thức của SV về nhân cách, về vai trò ảnh hưởng của giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc đối với nhân cách đã có những chuyển biến tích cực.

Một là, nhận thức của sinh viên về nhân cách

Tìm hiểu nhận thức của SV về NC từ cảm tính ban đầu đến hiểu biết về khái niệm, có thể thấy được các cung bậc nhận thức khác nhau của SV. Quan niệm của hầu hết SV hôm nay đều xem NC đồng nghĩa với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở con người theo chuẩn mực giá trị truyền thống (68%). Quan niệm NC là tính cách con người, dường như ý kiến SV cho đây là một cách quan niệm thông thường khó bác bỏ. Số SV quan niệm NC là thuộc tính


người có học, người có văn hóa, người có tài năng có một tỷ lệ loãng [xem kết quả khảo sát, bảng 1 phụ lục: Quan niệm của bạn về nhân cách].

Theo một cách diễn đạt khác của SV, NC là những gì mà con người luôn cần phải có, mỗi người có một ý thức và hành vi ứng xử NC riêng tạo nên sự đa dạng phong phú NC trong xã hội. Một bộ phận khác cho rằng, NC là một khái niệm trừu tượng khó nắm bắt, phản ánh nhu cầu của con người luôn mong muốn hoàn thiện mình. Loại ý kiến thứ ba, NC là cách đối nhân xử thế ở đời, thời nào cũng vậy, NC tốt là người tốt, NC xấu là người xấu.

Như vậy, việc nhìn nhận chưa rõ và còn có ý kiến khác nhau của SV về NC có phần quan trọng bắt nguồn từ nguyên nhân giáo dục nói chung và những kiến thức cơ bản đầu tiên về NC. Thực trạng này đặt ra một vấn đề trong giáo dục Đại học là việc trang bị cho SV kiến thức cơ bản về NC. Việc đánh giá đúng nhận thức và thực trạng NCSV Việt Nam hiện nay là một vấn đề quan trọng để tìm ra những giải pháp khả thi để phát huy vai trò của giáo dục GTVH tinh thần TTDT. Từ kết quả khảo sát và dữ liệu tham khảo cho thấy tình hình NCSV Việt Nam hiện nay đang có vấn đề. Tuy nhiên, chúng ta cần phải khách quan trong đánh giá, không nên chỉ nhìn vào những hiện tượng, biểu hiện bề ngoài, cách nhìn phiến diện, đi đến kết luận bi quan.

Hai là, nhận thức của sinh viên về vai trò ảnh hưởng của giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc đối với nhân cách

Bản thân SV, do những đặc trưng và đặc thù của tuổi trẻ, họ rất gần với văn hóa, rất dễ tiếp nhận văn hóa. Sự nhạy cảm của tâm hồn và những khát vọng trở nên tốt đẹp làm cho SV chịu ảnh hưởng rất sâu từ những giáo dục văn hóa được thực hiện bởi những NCVH. Hầu hết SV có cách nhìn tích cực về vai trò tác động, ảnh hưởng của giáo dục GTVH tinh thần TTDT đối với NCSV. Khi được hỏi, 95% SV trả lời quan tâm đến các GTVH tinh thần TTDT và sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy các giá trị đó. Bản thân SV nhận thức được xây dựng môi trường văn hóa học đường lành mạnh là những nhân tố rất quan trọng trực tiếp tác động, ảnh hưởng đến quá trình hình thành


và phát triển NCSV hiện nay. Nhiều ý kiến SV cho rằng giáo dục GTVH tinh thần TTDT có tác động ảnh hưởng tích cực đến phát triển NCSV Việt Nam hiện nay nhưng chưa được quan tâm đúng mức [xem kết quả khảo sát, bảng15 phụ lục: Những nhân tố tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và hiệu quả giáo dục nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay].

Theo Phạm Thị Mai Hương SV năm thứ 3, học viện Ngân Hàng: “Xã hội đang phải chạy đua với kinh tế thị trường và khoa học công nghệ thì giới trẻ nhất là SV không thể không bị lôi cuốn. Sự bận rộn, tranh đua, mưu cầu lợi ích cá nhân chi phối gần như thường ngày là nguyên nhân trực tiếp đẩy quá khứ lùi lại càng xa. Dù có hiểu giá trị truyền thống là sự kết nối quá khứ tạo nên sức mạnh cho hiện tại và định hướng tương lai thì tuổi trẻ cũng không thể tự ý thức đầy đủ được việc đó là của mình. SV mong muốn những GTVH tinh thần TTDT phải được giữ gìn và phát huy bằng con đường giáo dục cho thế hệ trẻ nhiều hơn nữa. Bởi chỉ có giáo dục mới mang lại tri thức, thành công bằng con đường ngắn nhất” [Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp].

Nghiêm Vũ Ngọc Thúy SV năm thứ 4, đại học Thăng Long “SV là đối tượng tiếp cận thông tin mạng nhiều nhất hàng ngày, nhưng phần lớn những gì phản ánh ở đó lại là những hiện tượng và xu hướng tiêu cực như cướp của, giết người, nghiện hút, mại dâm, thác loạn, tự tử, mê tín, hành xử bạo lực, vi phạm pháp luật, lai căng mất gốc, nghiện net vv... Trong khi đó chỉ có rất ít những bài viết với thông tin phản ánh về những xu hướng, hiện tượng, khía cạnh tích cực, hiện đại và lành mạnh trong văn hóa và lối sống của giới trẻ. Ở trường Đại học thì việc giáo dục những GTVH tinh thần TTDT lại rất hạn chế vì không có môn học về nội dung này. SV ý thức được đây là vấn đề hệ trọng liên quan đến sự phát triển của cả một thế hệ, các cấp lãnh đạo và ngành giáo dục cần đặc biệt quan tâm, có chiến lược giáo dục về những GTVH tinh thần TTDT cho SV Đại học một cách thỏa đáng” [Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp].

Nguyễn Thị Bích SV năm thứ 3, đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp: “Bây giờ học sinh phổ thông ngại học môn lịch sử, ngại thi môn lịch sử không


còn là chuyện xa lạ. Và cũng không hiểu sao đến chương trình cao đẳng, đại học thì không còn môn học này nữa. Chúng em có suy nghĩ cứ theo logic mà hiểu thì học lịch sử và giáo dục truyền thống đã bị xem nhẹ hoặc do bố trí chương trình, nội dung ở các bậc học còn có vấn đề. Có lẽ đây cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến nhận thức của SV về giáo dục những GTVH tinh thần TTDT còn có sự lệch lạc. Hơn bao giờ hết thế hệ SV hôm nay rất cần được định hướng về tư tưởng, tình cảm và nhận thức để kế thừa và phát huy những GTVH tinh thần TTDT, trên cơ sở đó mà nuôi dưỡng niềm tin vào tương lai, ý thức chấn hưng đất nước, thiết thực xây dựng, phát triển nhân cách SV Việt Nam truyền thống và hiện đại” [Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp].

Nhóm SV đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp, cao đẳng FPT, đại học y Hải Phòng, đại học Hải Phòng, đại học Hàng hải Việt Nam cho rằng cần phải đưa nội dung giáo dục GTVH tinh thần TTDT vào chương trình giáo dục đại học và cấu thành một môn học theo học chế tín chỉ.

Nhìn chung SV đã có những tri thức, sự hiểu biết nhất định về GTVH tinh thần TTDT. Ngoài kiến thức có được từ môn lịch sử ở chương trình giáo dục phổ thông, SV năm thứ nhất đã tiếp cận môn nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, năm thứ hai, thứ ba học các môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam...là những môn tích hợp một phần kiến thức về GTVH tinh thần TTDT. Nói một phần nghĩa là cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này còn rất hạn chế đối với yêu cầu nhận thức của SV về GTVH tinh thần TTDT. Có thể thấy, việc nhìn nhận chưa rõ và còn có ý kiến khác nhau của SV về vai trò giáo dục GTVH tinh thần TTDT đối với NCSV có phần quan trọng bắt nguồn từ nguyên nhân giáo dục nói chung và giáo dục GTVH tinh thần TTDT ở bậc đại học.

Thứ hai, sinh viên biết trân trọng và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc qua thái độ, hành vi ứng xử đối với đất nước

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và kiểm chứng lại thái độ và hành vi ứng xử của SV đối với các GTVH tinh thần TTDT như: Chủ nghĩa yêu nước,


tự hào dân tộc và yêu hòa bình; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái, bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo, khiêm tốn, giản dị và trung thực; truyền thống hiếu học; tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cái đẹp. Và có kết quả: Ở mức độ rất quan tâm chiếm 45%, quan tâm 36%, bình thường 17%, số SV trả lời không quan tâm chỉ chiếm 2% [xem kết quả khảo sát, bảng 7 phụ lục: Bạn quan tâm các GTVH tinh thần TTDT].

Hầu hết SV được hỏi đều hiểu dân tộc Việt Nam có lịch sử bốn ngàn năm văn hiến; một dân tộc có truyền thống hào hùng hơn 1000 năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, chống giặc ngoại xâm phương Bắc và thế kỷ XX chiến thắng 3 đế quốc to là Pháp, Mỹ, Nhật. Các nhân vật lịch sử dân tộc từ bà Trưng, bà Triệu, Lý Thái Tổ, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ...cho đến Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp như những huyền thoại lắng lại trong tâm thức các bạn. Khi trao đổi ý kiến các bạn đều tâm đắc với những điều sâu xa về nguồn cội. Người Việt Nam dù có đi khắp bốn phương trời cũng không quên quê cha, đất tổ, “dòng máu Lạc Hồng, con rồng cháu tiên”, nghĩa nặng tình sâu truyền lại đời đời kiếp kiếp trong các thế hệ người Việt. Các bạn ý thức được trách nhiệm của thế hệ trẻ SV hôm nay phải giữ gìn, phát huy các giá trị đó.

Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy SV vẫn là đối tượng quan tâm đến những vấn đề thời sự đất nước. Khi được hỏi về “Tương lai, vận mệnh của đất nước” có 25% các bạn trả lời rất quan tâm, 64% trả lời quan tâm [Xem kết quả khảo sát, bảng 11: Quan tâm đến thời sự đất nước, thế giới]. “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà tự hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay”, câu hát đó luôn thôi thúc thế hệ trẻ nói chung, SV nói riêng về trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phỏng vấn sâu một số SV cho thấy các bạn không hề thờ ơ với thời cuộc và cho rằng vấn đề quan tâm nhất của thế hệ trẻ nói chung và SV nói riêng đối với đất nước hiện nay theo thứ tự ưu tiên là: Chấn hưng giáo dục, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, chống tham nhũng.


Có thể đi đến kết luận rằng đại đa số SV Việt Nam hiện nay luôn quan tâm đến tình hình đất nước, dân tộc. Sự quan tâm đó thể hiện ở mong muốn được yêu nước một cách duy lý hơn, không chỉ đơn thuần là cảm tình yêu nước mà là yêu nước với thái độ của người làm chủ đất nước, với tư cách của công dân hiện đại, tức là phải có đủ thông tin và năng lực để đánh giá tình hình đất nước, để thể hiện vai trò chủ nhân đất nước với trách nhiệm đầy đủ. Đây chính là một nét mới đặt ra đối với công tác giáo dục GTVH tinh thần TTDT và bồi dưỡng nhân cách cho SV Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, sinh viên biết giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc thể hiện qua rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống

SV Việt Nam hôm nay là sản phẩm con người của công cuộc đổi mới đất nước. Họ được hưởng tất cả những thành quả tốt đẹp của cách mạng, nhất là công cuộc đổi mới đem lại. Vì vậy, có thể khẳng định đa số SV có phẩm chất đạo đức tốt thể hiện ở lý tưởng, niềm tin vào Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thể hiện ở động cơ học tập, rèn luyện vươn lên; thể hiện ở việc tiếp thu, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát theo các tiêu chí phản ánh đặc điểm về phẩm chất đạo đức, lối sống và nhân cách để SV đưa ra nhận xét của mình. Kết quả khảo sát cho thấy có 92% số SV được hỏi nhận thức đúng và bày tỏ thái độ tôn trọng những giá trị truyền thống, kính trọng, biết ơn các thế hệ đi trước, nhớ đến cội nguồn dân tộc. Hầu hết SV đã biểu hiện phẩm chất này bằng hành động của mình như tham gia vào các phong trào “đền ơn, đáp nghĩa”, thăm hỏi các bậc lão thành cách mạng, các thầy cô…Có 90% số SV cho rằng SV phải sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, chấp hành đầy đủ những nội quy, quy chế do nhà trường đề ra.

Yêu nước, có hoài bão cống hiến, có lý tưởng cách mạng, kính thầy, yêu bạn, hiếu thảo với bố mẹ đều là những tiêu chí có tỉ lệ phiếu rất cao. Trung thực, thẳng thắn, tôn trọng lẽ phải là một phẩm chất cần thiết trong nhân cách, có 71% số SV được hỏi đồng ý với tiêu chí này. Và 84% sinh viên

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 04/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí