Hoàn Thiện Công Tác Thanh Tra, Giám Sát Của Ngân Hàng Nhà Nước



3.2.2. Nhóm giải pháp hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà Nước

3.2.2.1 Hoàn thiện Thông tư 13/2010/TT-NHNN


Căn cứ theo những đánh giá trong chương II, Thông tư 13/2010/TT-NHNN cần có những thay đổi để góp phần hướng các NHTM tiếp cận việc quản lý rủi ro theo Basel II và xa hơn là Basel III. Cụ thể như sau:

Thứ nhất là thay đổi cách tính CAR (hệ số an toàn vốn). Theo đó, Thông tư 13 nên đảm bảo phần tính mẫu số của công thức tính CAR với việc cộng cả rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động (rủi ro tác nghiệp).

Thứ hai Basel II đã đưa ra các cách tiếp cận khác nhau cho các ngân hàng có quy 1

Thứ hai, Basel II đã đưa ra các cách tiếp cận khác nhau cho các ngân hàng có quy mô, đặc điểm khác nhau và các ngân hàng có thể tự lựa chọn cách tiếp cận riêng cho mình; Thông tư 13/2010/TT-NHNN cũng cần xây dựng việc tính mức độ đủ vốn căn cứ theo quy mô và phạm vi hoạt động của từng NHTM.

Thứ ba, Thông tư 13/2010/TT-NHNN nên khắc phục những bất cập trong quy định về hệ số rủi ro của các tài sản Có trong công thức tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tại Ðiều 5. - NHNN nên xem xét bổ sung vào khoản 5.1 về các tài sản có rủi ro bằng 0, đối với các khoản cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư theo các hợp đồng, trong đó NHTM chỉ hưởng phí ủy thác mà không chịu rủi ro. - Thông tư 13/2010/TT-NHNN cần phân loại tài sản chi tiết và tính đến sự khác biệt giữa các mức độ rủi ro riêng biệt. Ðối với các khoản phải đòi, hệ số rủi ro được xác định dựa trên loại hình tài sản bảo đảm (giấy tờ có giá, bất động sản) và đối tượng (Chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, công ty trực thuộc, các tổ chức tín dụng khác), nhưng đồng thời phải chi tiết cho rủi ro theo mức độ tín nhiệm của đối tác hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Về vấn đề bảo lãnh, trong thực tế, tỷ lệ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho khách hàng là tương đối thấp trong tổng nghĩa vụ bảo lãnh. Do đó, nên đặt hệ số chuyển đổi nhỏ hơn 100%.

Thứ tư, cần bổ sung quy định về giới hạn liên quan đến đòn bẩy của các NHTM. Theo đó quy định cụ thể giới hạn Vốn tự có so với Tổng tài sản trong xác định việc đủ vốn tại NHTM. Ðiều này sẽ hướng các NHTM tiếp cận được Basel III.

Giải pháp ứng dụng hiệp ước Basel II vào hệ thống quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 12



3.2.2.2 Hoàn thiện công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước


Nội dung của giải pháp này bao gồm:

Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát, cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của một số Vụ, Cục của NHNN hiện nay thành Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN đảm bảo thực hiện đầy đủ một chu trình gồm 4 khâu: Cấp phép; Ban hành quy chế; Thực hiện giám sát (giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ); Xử phạt và thu hồi giấy phép.

Đổi mới phương pháp giám sát, hiện nay, NHNN đã triển khai phương pháp giám sát theo CAMEL (CAMEL là những chữ cái viết tắt để chỉ các chỉ tiêu cấu thành hệ thống xếp hạng đối với một ngân hàng gồm: Capital (vốn), Assets (tài sản) Management (quản lý), Earnings (lợi nhuận), Liquidity (thanh khoản) và ensitivity (độ nhạy cảm với các rủi ro thị trường). Phương pháp giám sát CAMEL là phương pháp giám sát có sự đổi mới và phát triển cao nhưng vẫn đảm bảo tính kế thừa từ những nội dung giám sát, tổ chức giám sát, của NHNN Việt Nam. Do vậy, việc thực hiện giám sát theo CAMEL sẽ đảm bảo được tính đơn giản, dễ thực hiện cho các cán bộ giám sát NHNN, đảm bảo tính đồng bộ với các công việc khác khi không đòi hỏi sự thay đổi quá lớn trong các hoạt động giám sát hiện tại.

Thống nhất nội dung giám sát, thể hiện trong việc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN cần thống nhất trong xây dựng các báo cáo liên quan đến hoạt động giám sát cũng như thống nhất được các nội dung trong từng báo cáo cho tất cả các bên liên quan.

Hoàn thiện quy trình giám sát, quy trình giám sát cần có sự kết hợp của hai bộ phận chính là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của Cơ quan Thanh tra, giám sát của NHNN. Các thông tin thu thập được một mặt cần được lưu trữ tại Cục quản lý thông tin của NHNN, mặt khác, cần được bộ phận giám sát từ xa sử dụng để phân tích, đánh giá tổng thể hệ thống ngân hàng trong báo cáo giám sát vĩ mô.

Đào tạo cán bộ giám sát có chuyên môn và đội ngũ kế cận, kế hoạch cụ thể cần được xây dựng theo hướng:

- NHNN cần một chuyên gia tư vấn thường trú có kinh nghiệm để hướng dẫn và đào tạo trực tiếp cho các cán bộ thanh tra tại chỗ và các cán bộ phân tích từ xa.

- NHNN cần phát triển một chương trình chuẩn về đào tạo, cấp chứng chỉ và đánh giá cán bộ.

- Việc đào tạo tại các chi nhánh cần nhận được sự chú ý đặc biệt ngay từ đầu.



- NHNN cần bố trí việc hợp tác đào tạo và đào tạo ở nước ngoài với mục tiêu xác đáng và rò ràng.

3.2.2.3 Hướng tới hiện đại hóa và nâng cao chất lượng thông tin tín dụng


Ngân hàng nhà nước xây dựng một hệ thống tập trung, tích hợp các quy trình nghiệp vụ và một kiến trúc công nghệ thông tin hiện đại, tăng cường năng lực thể chế để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ của mình. Hoạt động của một trung tâm thông tin tín dụng (CIC) phải đáp ứng được các mục tiêu như sau:

- Chia sẻ thông tin giữa các tổ chức cấp tín dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.

- Hỗ trợ tổ chức cấp tín dụng mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng.

- Hỗ trợ khách hàng vay trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các tổ chức cấp tín dụng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Trong bối cảnh mới, ý thức và niềm tin của ngành ngân hàng, các tổ chức tín dụng, những người làm tín dụng và người tiêu dùng về thông tin tín dụng đã được nâng cao. Điều này lại càng khiến thông tin về khách hàng vay có vai trò quan trọng hơn đối với họ trong công tác quản trị rủi ro. Chính vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là phải hiện đại hóa và nâng cao chất lượng thông tin tín dụng.

Để đáp ứng được nhu cầu phát triển:

- CIC cần phải xây dựng được một kho dữ liệu phong phú, đa dạng và chất lượng hơn; cần tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông tiên tiến, hiện đại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm thu thập để nâng cao khả năng và tốc độ xử lý thông tin phục vụ công tác điều hành và cung cấp cho các khách hàng.

- CIC cần phát triển mô hình xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, liên kết hệ thống xếp hạng, chấm điểm tín dụng của CIC với các tổ chức tín dụng; đa dạng các kênh cung cấp và dịch vụ thông tin đảm bảo an toàn, bảo mật, công khai; nâng cao độ chuẩn dữ liệu đạt chuẩn quốc tế để phục vụ tốt công tác quản lý điều hành của Ngân hàng Nhà nước và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.

- CIC cần chú trọng hơn đến độ chính xác của thông tin trong thu thập và xử lý; tăng tính kiểm soát và đẩy mạnh hợp tác công-tư để quản lý toàn diện thông tin về khách hàng vay; chú trọng đến tính đầy đủ khi bổ sung các loại thông tin có đủ phân tích xã hội, chấm điểm tín dụng đủ cơ sở tin cậy cho các tổ chức có thể quyết định cấp tín dụng.



3.2.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ từ Chính phủ

3.2.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý về sáp nhập và hợp nhất ngân hàng tại Việt Nam

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm bộc lộ rò những yếu kém nội tại của hệ thống ngân hàng cả ở tầm vĩ mô và vi mô: chất lượng đầu tư của các ngân hàng thương mại, hiệu quả chưa cao, nợ xấu tiềm ẩn, phân bổ nguồn vốn chưa hợp lý; mức độ an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thấp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tất cả những điều này đặt ra sự cần thiết phải tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Trong đó, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) là một trong các giải pháp có tính chiến lược góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là giảm rủi ro tín dụng, giảm tỷ lệ nợ xấu, tăng tính thanh khoản và tăng khả năng quản trị rủi ro của từng ngân hàng cũng như toàn hệ thống trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Hiện nay, hoạt động mua bán và sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam được quy định và điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Việc quy định phân tán và không cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm khác nhau đã làm các ngân hàng khó vận dụng vào hoạt động mua bán và sáp nhập trong lĩnh vực hoạt động của mình.

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 hướng dẫn về hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng. Nhưng đến nay, Thông tư số 04 nêu trên đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt là Thông tư số 04 được ban hành trước khi Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 1 /0 /2010 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2011, trong đó cho phép tổ chức tín dụng được tổ chức lại dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản; đồng thời giao Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại tổ chức tín dụng.

Do vậy, Chính Phủ cần sớm hoàn thiện và ban hành các văn bản hướng dẫn chuyên ngành phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật và thông lệ quốc tế để tạo hành lang pháp lý an toàn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia hoạt động mua bán và sáp nhập.

Một số giải pháp góp phần hoàn thiện khung pháp lý về M&A ngân hàng tại Việt Nam



- Xây dựng tập trung và có hệ thống đối với quy định của pháp luật về M&A ngân hàng với: (i) Hoạt động mua lại, sáp nhập và hợp nhất, (ii) Đầu tư mua cổ phần để trở thành cổ đông chiến lược.

- Các quy định về M&A ngân hàng cần phải phù hợp, đáp ứng các điều kiện về kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh, về thị phần, thị trường liên quan để tránh việc độc quyền, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường ngân hàng. Ngoài ra, các vấn đề đáng được quan tâm như định giá tài sản, thương hiệu, thuế, giải quyết lao động sau M&A cũng cần phải được làm rò.

- Hình thành các công ty tư vấn M&A và các chuyên gia tư vấn M&A của Việt Nam một cách chuyên nghiệp, với các khâu:

(i) Dự báo, tìm kiếm, thăm dò đối tác.

(ii) Thẩm định đầy đủ các nội dung về pháp lý/tài chính.

(iii) Thiết lập hợp đồng M&A trong từng trường hợp, từng yêu cầu cụ thể.

(iv) Các thủ tục với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau M&A.

(v) Các vấn đề cần giải quyết sau M&A.

3.2.3.2. Tiến tới việc xây dựng, ứng dụng chuẩn kế toán quốc tế

Một trong các vấn đề nổi cộm của việc triển khai ứng dụng Basel II là việc không tương thích giữa chuẩn kế toán của Việt Nam và chuẩn kế toán quốc tế; do vậy việc ngân hàng chủ động định hướng chuyển đổi dần hệ thống kế toán sang chuẩn quốc tế là bước thuận lợi cho việc ứng dụng Basel II.

Khác với hệ thống kế toán Việt Nam (VA ), hệ thống kế toán quốc tế (IA ) không có sự bắt buộc mang tính hình thức. IA mặc dù đưa ra rất chi tiết các định nghĩa, phương pháp làm, cách trình bày và những thông tin bắt buộc phải trình bày trong các báo cáo tài chính nhưng IA không bắt buộc phải sử dụng chung các biểu mẫu báo cáo tài chính, hệ thống tài khoản, các hệ thống chứng từ, sổ kế toán. IA có bộ khung khái niệm và tính thống nhất cao giữa các chuẩn mực. VA còn nhiều vấn đề chưa rò ràng, thiếu nhiều vấn đề và đặc biệt là còn mâu thuẫn giữa các chuẩn mực hoặc sự không thống nhất giữa chuẩn mực và hướng dẫn về chuẩn mực đó.

Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Việt Nam chỉ quan tâm chủ yếu đến thông tin của báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư chứ chưa quan tâm đến thông tin quản trị nội bộ. Theo thông lệ quốc tế, tên gọi tài khoản chính là tên gọi ngắn gọn của số dư tài khoản hay chỉ tiêu cần quản lý. Không ghép chung nhiều chỉ tiêu khác nhau vào chung một tài khoản. Các chỉ tiêu khác nhau phải được ghi chép và báo cáo theo các tài khoản riêng biệt.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Với hệ thống lý luận ở chương 1, phân tích thực trạng ở chương 2 tác giả đã đưa ra hệ thống các giải pháp cho việc ứng dụng Basel II vào NHTM Việt Nam trong chương 3, bao gồm:

Các định hướng phát triển hệ thống NHTM Việt Nam đến giai đoạn 2015- 2020 và định hướng lộ trình ứng dụng Basel II. Tác giả cũng đưa ra ba nhóm giải pháp cho việc triển khai, ứng dụng Basel II bao gồm nhóm giải pháp về phía bản thân các NHTM, và nhóm giải pháp chung mang tính định hướng về phía Ngân hàng Nhà Nước, nhóm giải pháp về phía Chính phủ.

Đối với nhóm giải pháp về phía các NHTM bao gồm ba nhóm chính tuân thủ theo 3 trụ cột của hiệp ước Basel II đó là: Đảm bảo vốn an toàn, nâng cao kiểm tra- giám sát trong nội bộ NHTM, tăng cường quy tắc thị trường. Chi tiết được trình bày thông qua các giải pháp cơ bản là, tăng cường vốn điều lệ, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, xử lý vấn đề nợ xấu, hoàn thiện hệ thống corebanking, xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, hoàn thiện các tiêu chuẩn kế toán theo quốc tế và hoàn thiện quy trình quản trị rủi ro tác nghiệp, xây dựng môi trường thông tin minh bạch.

Đối với nhóm giải pháp chung về phía Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ cũng bao gồm 3 nhóm giải pháp áp dụng theo 3 trụ cột của hiệp ước Basel II. Cụ thể các giải pháp là: hoàn thiện thông tư 13/2010/TT-NHNN, tăng cường kiểm tra-giám sát từ NHNN, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng thông tin tín dụng, xây dựng và ứng dụng chuẩn kế toán quốc tế.


PHẦN KẾT LUẬN‌


Trong những năm qua, ngành Ngân hàng đã có những cải cách đáng kể theo hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng trước yêu cầu phát triển kinh tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, việc đưa vào áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng là hết sức cần thiết.

Basel II là Hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Đây được xem là giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao các tiêu chuẩn ngân hàng. Các vấn đề chính gồm những quy định liên quan tới tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, quá trình xem xét giám sát của cơ quan quản lý và cuối cùng là các quy tắc thị trường.

Trong xu thế hội nhập và tự do hóa hoạt động ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, áp dụng Basel II là yêu cầu cấp thiết và bắt buộc đối với mọi NHTM. Mặc dù sau năm 2010 Việt Nam mới áp dụng Basel II, nhưng Basel II đã ảnh hưởng lớn đến các NHTM Việt Nam, nhất là yêu cầu về quản lý rủi ro. Việc áp dụng Basel II đòi hỏi chi phí khá cao, các NHTM phải sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, bao gồm các qui trình, thủ tục và công nghệ thông tin để đánh giá khách hàng với mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải chú trọng mở rộng qui mô về vốn và loại hình dịch vụ theo hướng sáp nhập thành ngân hàng lớn hơn và liên doanh, liên kết với các ngân hàng nước ngoài để hạn chế rủi ro.

Với sự phát triển của thị trường vốn và yêu cầu của hội nhập quốc tế, nguồn thông tin về các ngân hàng ngày càng công khai và minh bạch, việc tăng vốn ngày càng khó khăn hơn, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải quan tâm đặc biệt đến hiệu quả sử dụng vốn và khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, càng mở rộng qui mô và loại hình dịch vụ thì ngân hàng càng phải chủ động trong việc đối mặt với rủi ro hoạt động. Các trụ cột của Basel II có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nên các qui định của Basel II về quản lý rủi ro hoạt động cần được tiến hành trong mối liên hệ với những trụ cột khác, nhất là yêu cầu về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, về thanh tra giám sát, tuân thủ nguyên tắc thị trường và công khai tài chính. Điều này đòi hỏi phải có nỗ lực chung của ban lãnh đạo NHTM và kiểm soát vĩ mô từ Ngân



hàng Nhà nước, tập trung vào việc nâng cao quản trị kinh doanh và kiểm soát nội bộ NHTM cũng như năng lực thanh tra, giám sát của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước.

Căn cứ vào lộ trình và kinh nghiệm các nước G10 cũng như các nước không thuộc nhóm G10 đã từng ứng dụng Basel II, tác giả mạnh dạn xây dựng lộ trình, phương pháp và mô hình để ứng dụng Basel II vào hệ thống quản trị rủi ro của Việt Nam từ nay đến 2020. Đồng thời, đưa ra những giải pháp đi kèm để nâng cao khả năng ứng dụng Basel II của các ngân hàng Việt Nam.

Thông qua toàn bộ nội dung đề tài từ chương I đến chương III, từ việc phân tích tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng đến việc tìm hiểu những khó khăn mà các ngân hàng có thể gặp phải trong quá trình vận dụng theo chuẩn mực của hiệp ước Basel, đề tài cố gắng đề ra một số giải pháp có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả ứng dụng Basel tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Những giải pháp này được phân chia áp dụng theo từng trụ cột trong hiệp ước Basel II, bao gồm nhóm giải pháp đối với bản thân các ngân hàng thương mại và những giải pháp hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ.

Theo đó, tác giả chủ yếu nhấn mạnh giải pháp hoàn thiện và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin để có cơ sở xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, từng bước ứng dụng phương pháp đơn giản của Basel II trong đánh giá rủi ro tín dụng và phương pháp chuẩn hóa của Basel II trong đánh giá rủi ro hoạt động. Bên cạnh đó tác giả cũng rất quan tâm đến các giải pháp nâng cao công tác thanh tra, giám sát ngân hàng và minh bạch hóa thông tin.

Hướng phát triển để tài sắp tới, nghiên cứu xây dựng mô hình quản trị rủi ro trong các NHTM chấp hành các quy định của hệ thống luật pháp, tuân thủ hiệp ước quốc tế Basel II, và hiệp ước Basel mới, đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả, góp phần vào sự phát triển bền vững của bản thân ngân hàng cũng như toàn hệ thống NHTM Việt Nam.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2022