Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel

risk – VAR), trong đó tính đến cả rủi ro tác nghiệp, rủi ro kinh doanh, rủi ro tổ chức,…

Bản chất của mọi hoạt động ngân hàng đều xoay quanh công tác quản trị rủi ro. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra đối với ngành ngân hàng Việt Nam (bao gồm cả về cơ chế quản lý nhà nước cũng như thực tiễn hoạt động kinh doanh) hiện tại cũng như trong thời gian tới là phải phát triển được những khuôn khổ pháp lý và quy trình quản trị rủi ro, giám sát an toàn, tiếp cận dần tới việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Vì chỉ có đáp ứng được các yêu cầu của các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, các dịch vụ do NHTM Việt Nam cung cấp mới được chấp nhận trong các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế. Ngoài ra, ngay cả trên thị trường trong nước, quản trị rủi ro theo các nguyên tắc và thông lệ quốc tế giúp các ngân hàng thương mại đảm bảo mức độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của mình.

Hiệp ước quốc tế về Đo lường vốn và các chuẩn mực về vốn (International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards) - thường gọi là Hiệp ước vốn Basel (Basel Capital Accord) - là thoả thuận về một cơ chế quản lý, điều hành và giám sát hoạt động của hệ thống NHTM nhằm mục đích quản trị rủi ro, ổn định thị trường tài chính được các ngân hàng trung ương của 10 nước phát triển là thành viên của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (Bank for International Setttlement - BIS) cùng xây dựng và thống nhất áp dụng. Do những lợi ích mà các chuẩn mực này mang lại, một loạt các nước không phải thành viên của BIS cũng như các nước đang phát triển đã bắt đầu nghiên cứu và áp dụng thành công. Với mục tiêu hệ thống hóa nội dung của Hiệp ước Basel và đề xuất những nhóm giải pháp thực tế giúp các NHTM hoàn thiện hơn quy trình quản trị rủi ro của mình, từng bước tiếp cận các chuẩn mực của Basel, nghiên cứu sinh đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel”.

2. Tình hình nghiên cứu


Tại Việt Nam, vấn đề quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng của các ngân hàng thương mại, trong đó có đề cập đến hiệp ước Basel đã có một số công trình dưới dạng luận văn, luận án, đề tài khoa học công bố. Tuy nhiên những nghiên

2

cứu về Hiệp ước Basel và ý nghĩa ứng dụng của Hiệp ước này trong quản trị NHTM còn rất ít và chưa hệ thống.

3. Mục đích nghiên cứu


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

Trên cơ sở tìm hiểu về các nội dung trong Hiệp ước Basel với tư cách là chuẩn mực về quản trị rủi ro và giám sát an toàn trong hoạt động của NHTM, luận án phân tích khả năng và chứng minh sự cần thiết phải áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo Basel vào hệ thống NHTM Việt Nam đồng thời đề xuất giải pháp tăng cường công tác quản trị rủi ro cho các NHTM Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 28


Đối tượng nghiên cứu của luận án là khả năng áp dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ giới hạn xung quanh những chuẩn mực quản trị rủi ro được nêu trong Hiệp ước Basel, đi sâu phân tích thực trạng hoạt động quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam theo ba trụ cột của Basel II từ khi Việt Nam chính thức có hệ thống ngân hàng hai cấp đến nay, từ đó đưa ra các giải pháp tổng thể để hệ thống NHTM Việt Nam tiếp cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực của Basel trong công tác quản trị rủi ro.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Làm rõ các vấn đề chung, cơ bản về NHTM, rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM.

- Phân tích các nội dung của Hiệp ước Basel với ý nghĩa là các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM và tình hình áp dụng trên thế giới.

- Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.

- Đề ra một số giải pháp ở cấp vĩ mô và vi mô nhằm tăng cường năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam căn cứ trên các chỉ dẫn và chuẩn mực trong Hiệp ước Basel.


3

6. Phương pháp nghiên cứu


- Vận dụng quan điểm chính trị của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế, chiến lược phát triển ngành tài chính ngân hàng.

- Phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin


- Kế thừa và ứng dụng các kết quả nghiên cứu về quản trị rủi ro


- Phương pháp tổng hợp, phân tích, điều tra khảo sát các số liệu, dữ liệu, dữ kiện thực tế.

7. Các đóng góp của Luận án


- Phân tích các nội dung cơ bản của Hiệp ước Basel, quá trình hình thành và phát triển, tình hình ứng dụng của Hiệp ước Basel tại các nước trên thế giới. Ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc áp dụng Hiệp ước Basel tại các nước đang phát triển và Việt Nam.

- Dẫn chiếu các chuẩn mực của Hiệp ước Basel như là các chỉ dẫn trong quản trị rủi ro tổng thể hoạt động của một NHTM, bao gồm cả Rủi ro tín dụng, Rủi ro thị trường (lãi suất, tỷ giá), Rủi ro thanh khoản, Rủi ro tác nghiệp, Cơ chế giám sát an toàn và công bố thông tin.

- Phân tích được thực trạng công tác quản trị rủi ro trong các NHTM Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung phân tích các mặt còn nhiều tồn tại, yếu kém trong công tác quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là các NHTM nhà nước.

- Nhận diện được những thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam liên quan đến công tác quản trị rủi ro trong quá trình hội nhập quốc tế ngành ngân hàng, trong đó đặt trọng tâm các NHTM nhà nước đang tiến hành cổ phần hoá.

- Đặc định hoá một số mô hình lượng hoá rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam với các tham số phù hợp với thị trường và đặc điểm hoạt động của ngân hàng Việt Nam.


4

- Đề xuất các nhóm giải pháp nhằm tăng cường chất lượng công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam dựa trên các chỉ dẫn và các chuẩn mực theo Hiệp ước Basel.

8. Kết cấu của Luận án


Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được bố cục thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại theo Hiệp ước Basel

Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel

Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel.

CHƯƠNG 1


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO HIỆP ƯỚC BASEL

1.1. Ngân hàng thương mại và quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM

1.1.1. Ngân hàng thương mại


Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 quy định: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Như vậy, ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời số vốn đó được sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế và cá nhân khác với mục đích phát triển kinh tế xã hội.

NHTM có 3 chức năng cơ bản: chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán và quản lý phương tiện thanh toán, chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng.


5

1.1.2. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM


Dưới góc độ hoạt động kinh doanh của NHTM, rủi ro được định nghĩa là những sự thay đổi không lường trước được về giá trị tài sản (gồm tài sản có và tài sản nợ) và các nghĩa vụ khác. Tất cả các hoạt động của NHTM đều chứa đựng rủi ro hay những yếu tố không lường trước được có thể gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có nhiều cách phân loại rủi ro. Theo cách phân loại thông dụng nhất, rủi ro bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác nghiệp và rủi ro khác.

1.1.3. Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM


Quản trị rủi ro liên quan đến việc xác định, đo lường, giám sát, kiểm soát, quản lý và xử lý rủi ro. Theo thực tiễn quản trị rủi ro của các NHTM trên thế giới, công tác quản trị rủi ro trong hoạt động NHTM được thực hiện theo một số nguyên tắc chủ yếu như: Nguyên tắc chấp nhận rủi ro, Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép, Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt,…

Quy trình quản trị rủi ro bao gồm các bước: (1) Xác định rủi ro và xây dựng hệ thống chính sách quy chế, quy định; (2) Phân tích rủi ro và lượng hoá rủi ro; (3) Chấp nhận rủi ro, quản lý và báo cáo.

1.2. Quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM theo Hiệp ước Basel

1.2.1. Sự ra đời và quá trình phát triển của Hiệp ước Basel

Nhằm ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng tài chính ngân hàng toàn cầu, đặc biệt là sau sự sụp đổ của ngân hàng Bankhaus Herstatt của Tây Đức vào năm 1977, các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ trung ương (ngân hàng trung ương hoặc một cơ quan có chức năng tương tự) của 10 nước có nền kinh tế phát triển đã thành lập ra Uỷ ban Basel (The Basel Committee on Banking Regulations and Supervisory Practices) để xây dựng những khuôn khổ chung kiểm soát các rủi ro đối với những ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến nay, Uỷ ban Basel có 27 thành viên. Trên thực tế, Uỷ ban Basel là một diễn đàn để các nước phát triển thành viên trao đổi và hợp tác về các vấn đề liên quan đến giám sát hoạt động ngân hàng thương mại của từng nước. Hiệp ước Basel I ra đời năm 1988, yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%. Hiệp ước Basel II ban hành tháng 6/2004 nhằm khắc phục hạn chế


6

của Basel I. Tháng 6/2011: ban hành Hiệp ước Basel III sửa đổi, bổ sung một số nội dung so với Basel II.

1.2.2. Nội dung quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM theo Hiệp ước Basel

Hoạt động của một ngân hàng thường được tài trợ từ hai nguồn, tiền vay hoặc vốn chủ sở hữu. Tiền vay của ngân hàng (gồm cả các khoản tiền gửi) là các tài sản nợ mà nếu không được thanh toán đúng hạn có thể đẩy ngân hàng trước tình trạng mất khả năng trả nợ. Trái lại, đầu tư của chủ sở hữu có thể có lãi hoặc bị thua lỗ nhưng không đẩy ngân hàng vào tình trạng mất khả năng trả nợ như trên. Vì vậy, trong điều kiện các yếu tố khác như nhau, tỷ trọng các hoạt động của một ngân hàng được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu càng lớn thì ngân hàng đó sẽ có thể tiếp tục trả được nợ trong những thời kỳ kinh tế khó khăn.

Lập luận này tạo cơ sở cho các chuyên gia giám sát ngân hàng xem tỷ lệ an toàn vốn như là một yếu tố cơ bản quyết định sự an toàn và hiệu quả của ngân hàng. Một ngân hàng thường xuyên duy trì đầy đủ vốn, số vốn được bổ sung từ kết quả hoạt động ngày một cao hơn thì đó là biểu hiện của một ngân hàng ổn định, lành mạnh và hoạt động hiệu quả. Những ngân hàng thiếu vốn với giá trị ròng thấp sẽ dễ đổ vỡ khi gặp phải những rủi ro hoặc trước những biến động của môi trường kinh doanh. Với lập luận trên, nội dung chính của Hiệp ước Basel 1988 tập trung vào các quy định về vốn cũng như hệ thống tỷ trọng rủi ro đối với từng loại tài sản của ngân hàng. Ủy ban Basel tin rằng các quy định này là một khuôn khổ hữu ích cho việc quản lý và giám sát rủi ro ngân hàng một cách thận trọng, đồng thời làm cơ sở cho các ngân hàng ban hành các chính sách, thủ tục và thông lệ thực hành về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Hiệp ước Basel I gồm 3 phần: Phần 1 nói về các yếu tố tạo thành vốn; Phần 2 đề cập đến hệ thống các tỷ trọng rủi ro và Phần 3 bàn về tỷ lệ vốn mục tiêu.

Hiệp ước Basel II được cấu trúc gồm 3 trụ cột: (1) Yêu cầu vốn tối thiểu, là sự mở rộng của các quy tắc chuẩn hoá đặt ra trong Hiệp ước 1988, (2) Quy trình rà soát giám sát tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn và quá trình đánh giá nội bộ, và (3) Áp



7

dụng các nguyên tắc thị trường nhằm khuyến khích việc công khai thông tin cũng như thực hiện các thông lệ kinh doanh ngân hàng an toàn.

Basel II yêu cầu các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Theo đó, Basel II đưa ra một tỷ lệ vốn, với tử số là vốn tự có của ngân hàng và mẫu số là tài sản có rủi ro (đo lường mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng). Tỷ lệ vốn tối thiểu theo quy định tại Basel II là 8%.

Basel II đề cập đến 3 loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ngoài rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đã được quy định tại bản Hiệp ước về vốn năm 1988, Basel II còn bổ sung thêm một loại rủi ro nữa là rủi ro tác nghiệp.

Trụ cột thứ hai của Hiệp ước mới về vốn dựa trên một loạt các hướng dẫn chi tiết, trong đó nêu rõ sự cần thiết về phía ngân hàng phải đánh giá vốn trong mối tương quan với mức độ rủi ro chung của mình, và về phía cơ quan thanh tra, giám sát phải xem xét kết quả đánh giá này và có những biện pháp thích hợp trong trường hợp cần thiết. Mục đích của việc này là nhằm không những đảm bảo ngân hàng có đủ vốn để bù đắp rủi ro trong hoạt động kinh doanh, mà còn khuyến khích ngân hàng xây dựng và áp dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn.

Mục đích của Trụ cột thứ ba “Nguyên tắc thị trường” trong bản Hiệp ước mới là nhằm bổ sung cho các yêu cầu về vốn tối thiểu tại trụ cột thứ nhất và về vai trò của cơ quan thanh tra ở trụ cột thứ hai. Một đặc điểm quan trọng của Hiệp ước mới về vốn là các ngân hàng được trao nhiều quyền chủ động hơn trong việc xác định nhu cầu vốn của mình dựa trên các hệ thống đánh giá nội bộ. Do vậy, nguyên tắc thị trường trong trụ cột thứ ba của bản Hiệp ước mới sẽ giúp các thành viên tham gia thị trường có điều kiện đánh giá tốt hơn thông tin về mức độ rủi ro và quy mô vốn của ngân hàng, qua đó tạo điều kiện để ngân hàng và cơ quan thanh tra quản lý rủi ro hiệu quả hơn, nâng cao hơn nữa mức độ ổn định của từng ngân hàng nói riêng và của hệ thống ngân hàng nói chung.

Hiệp ước Basel III sửa đổi, bổ sung một số nội dung so với Basel II. Một

cách tổng thể, Basel III tăng cường yêu cầu về vốn của ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về tính thanh khoản ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Các

8

tiêu chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và có chất lượng vốn cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành của Basel II. Basel III đưa ra một số quy định mới về tỷ lệ cổ phần phổ thông, dự phòng bảo toàn vốn, dự phòng phản chu kỳ, tỷ lệ bảo đảm thanh khoản và tỷ lệ dự phòng bình ổn.

Các nước thành viên Basel sẽ bắt đầu thực hiện lộ trình chuyển đổi các tiêu chuẩn về vốn mới từ ngày 01/01/2013, đồng nghĩa với việc các nước này sẽ phải chuyển đổi các tiêu chuẩn nói trên thành luật hay các quy định quốc gia trước thời điểm 01/01/2013, đồng thời Basel III cũng đưa ra một lộ trình thực hiện cụ thể các yêu cầu về vốn theo Basel III.

1.3. Tình hình áp dụng Hiệp ước Basel tại các NHTM của một số nước trên thế giới

Theo thống kê của Uỷ ban Basel, Hiệp ước Basel I đã được áp dụng tại trên 100 quốc gia và được ngành ngân hàng thế giới coi như chuẩn mực về công tác rà soát và giám sát an toàn hoạt động của NHTM.

Trong số các nước thành viên của Uỷ ban Basel, với việc tham gia vào xây dựng nội dung Hiệp ước Basel II, các nước này đã gián tiếp thừa nhận trách nhiệm và cam kết áp dụng Basel II, mặc dù đối với một số nước chỉ cam kết áp dụng từng phần. Các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) áp dụng các quy định về vốn an toàn tối thiểu trong Basel II theo một đạo luật mới Uỷ ban châu Âu (EC) đưa ra.

Trên cơ sở thực tiễn áp dụng Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tại một số nước trên thế giới, tác giả rút ra một số bài học cụ thể trong việc áp dụng Basel. Kinh nghiệm các nước cho thấy mức độ sẵn sàng áp dụng Hiệp ước Basel và đặc biệt là Basel II phụ thuộc vào một số yếu tố như:

(i) Hiện trạng của hệ thống quản lý rủi ro của ngân hàng;

(ii) Chi phí/lợi ích dự tính;

(iii) Mức độ áp lực của ngân hàng trung ương;

(iv) Sự chuẩn bị thực hiện Basel của ngân hàng đối thủ.

Nếu nhìn từ góc độ của một ngân hàng trung ương, những yếu tố sẽ được cân nhắc khi chuẩn bị thực hiện Hiệp ước mới bao gồm:

(i) Các ưu tiên quốc gia;

9

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023