Những Vấn Đề Chung Về Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại Theo Hiệp Ước Basel


3. Mục đích nghiên cứu


Trên cơ sở tìm hiểu về các nội dung trong Hiệp ước Basel với tư cách là chuẩn mực về quản trị rủi ro và giám sát an toàn trong hoạt động của NHTM, luận án phân tích khả năng và chứng minh sự cần thiết phải áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo Basel vào hệ thống NHTM Việt Nam. Dựa trên sự phân tích, nghiên cứu thực trạng quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam theo các trụ cột của Hiệp ước Basel, Luận án đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro cho các NHTM Việt Nam dựa trên các nội dung của Hiệp ước Basel trong bối cảnh nền kinh tế nói chung và ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam nói riêng đang hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của luận án là khả năng áp dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ giới hạn xung quanh những chuẩn mực quản trị rủi ro được nêu trong Hiệp ước Basel, đi sâu phân tích thực trạng hoạt động quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam theo ba trụ cột của Basel II từ khi Việt Nam chính thức có hệ thống ngân hàng hai cấp đến nay (từ năm 1988), từ đó đưa ra các giải pháp tổng thể để hệ thống NHTM Việt Nam tiếp cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực của Basel trong công tác quản trị rủi ro.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, luận án có các nhiệm vụ sau đây:


- Làm rõ các vấn đề chung, cơ bản về NHTM, rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM.

- Phân tích các nội dung của Hiệp ước Basel với ý nghĩa là các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM và tình hình áp dụng trên thế giới.

- Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.


- Đề xuất một số giải pháp ở cấp vĩ mô và vi mô nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam dựa trên các chỉ dẫn và chuẩn mực trong Hiệp ước Basel.

6. Phương pháp nghiên cứu


- Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, kế thừa và phát triển dựa trên cơ sở lý luận và các kết quả nghiên cứu về quản trị kinh doanh nói chung và quản trị ngân hàng thương mại nói riêng.

- Luận án kế thừa và ứng dụng các kết quả nghiên cứu về quản trị rủi ro, các mô hình thống kê và tính toán rủi ro hiện đang áp dụng phổ biến tại các ngân hàng thương mại lớn trên thế giới.

- Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, điều tra khảo sát các số liệu, dữ liệu, dữ kiện thực tế theo nguồn chủ yếu từ Trung tâm Thông tin tín dụng (NHNNVN), Vụ Chính sách tiền tệ (NHNNVN), Cơ quan Thanh tra giám sát (NHNNVN), Vụ Tài chính ngân hàng (Bộ Tài chính), các hội thảo khoa học chuyên đề do NHNNVN tổ chức, báo cáo thường niên của NHNNVN, của các NHTM Việt Nam và nước ngoài, và các nguồn khác.

7. Các đóng góp của Luận án


- Phân tích các nội dung cơ bản của Hiệp ước Basel, quá trình hình thành và phát triển, tình hình ứng dụng của Hiệp ước Basel tại các nước trên thế giới.

- Trình bày ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc áp dụng Hiệp ước Basel tại các nước đang phát triển và Việt Nam.

- Dẫn chiếu các chuẩn mực của Hiệp ước Basel như là các chỉ dẫn trong quản trị rủi ro tổng thể hoạt động của một NHTM, bao gồm cả rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường (lãi suất, tỷ giá), rủi ro thanh khoản, rủi ro tác nghiệp, cơ chế giám sát an toàn và công bố thông tin.

- Phân tích được thực trạng năng lực quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung phân tích các mặt tồn tại, hạn chế và yếu kém của công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.


- Nhận diện được những thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam liên quan đến công tác quản trị rủi ro trong quá trình hội nhập quốc tế ngành ngân hàng, mở rộng hoạt động ngân hàng quốc tế và hiện diện tại nước ngoài cũng như xu thế đa dạng hóa sở hữu.

- Đề xuất các nhóm giải pháp nhằm tăng cường chất lượng công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam dựa trên các chỉ dẫn và các chuẩn mực theo Hiệp ước Basel.

8. Kết cấu của Luận án


Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được bố cục thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại theo Hiệp ước Basel

Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel

Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel.


CHƯƠNG 1


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO HIỆP ƯỚC BASEL

1.1. Ngân hàng thương mại và quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM

1.1.1. Ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại


Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế. Nó đặc biệt vì nhiều lý do khác nhau, nhưng lý do quan trọng nhất là loại hàng hoá chủ yếu mà ngân hàng kinh doanh là loại hàng hoá đặc biệt: tiền tệ. Trong ngôn ngữ các nước phương Tây, từ Banque trong tiếng Pháp cổ và Banca trong tiếng Ý có nghĩa là “cái ghế dài” hay “bàn của người đổi tiền”, dùng để chỉ nơi để đổi tiền, thường có bàn đổi tiền và ghế cho khách hàng ngồi trong cửa hiệu tại các trung tâm thương mại (trích dẫn Nguyễn Văn Tiến 2005). Trong nghĩa Hán Việt, bản thân từ “Ngân hàng” cũng đã nói lên một cách rõ ràng loại hàng hoá mà loại hình tổ chức này kinh doanh là tiền tệ (ngân).

Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng được gọi là một loại trung gian tài chính theo nghĩa là đơn vị chuyển những khoản tiết kiệm của tổ chức, cá nhân (có tiền nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian gửi vào ngân hàng để sinh lời hoặc vì mục đích an toàn hoặc để sử dụng các dịch vụ, tiện ích ngân hàng khác) sang cho các cá nhân, đơn vị cần tiền để hoạt động.

Ở mỗi quốc gia lại có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ở Mỹ, ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà hoạt động thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”. Ở Ấn Độ, ngân hàng thương mại được định nghĩa là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư.


Tại Việt Nam, trong nỗ lực xây dựng một khuôn khổ chung cho quản trị hoạt động ngân hàng thương mại, ngày 16/6/2010, Quốc hội đã thông qua Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 với nền tảng dựa trên Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 và Nghị định số 59/2009/NĐ-CP. Luật các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011.

Luật quy định rõ: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Như vậy, ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời số vốn đó được sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế và cá nhân khác với mục đích phát triển kinh tế xã hội.

1.1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại

Tùy vào luật pháp của từng quốc gia và theo từng thời kỳ, NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục đích chủ yếu là tạo ra lợi nhuận. Một cách tổng quát, hoạt động kinh doanh của NHTM là việc cung cấp các “dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về tài chính của khách hàng” gồm: Dịch vụ tiền gửi và tiết kiệm; Cho vay và đầu tư dự án; Dịch vụ chuyển tiền và thanh toán; Các dịch vụ tài chính và tư vấn; Các dịch vụ ngân hàng quốc tế (trích dẫn Nguyễn Văn Tiến 2005).

Với các loại hình hoạt động kinh doanh này, NHTM có ba chức năng cơ bản:


(i) Chức năng trung gian tín dụng: NHTM đóng vai trò trung gian trong việc tập trung, huy động các nguồn tiền tạm thời, nhàn rỗi trong nền kinh tế, bao gồm: tiền tiết kiệm của dân cư, vốn bằng tiền của các đơn vị, tổ chức kinh tế; biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay (cấp tín dụng), đáp ứng các nhu cầu vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu tiêu dùng của xã hội.

Thực tế, trong nền kinh tế luôn tồn tại tình trạng, tại một thời điểm, có một số lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể chưa cần dùng đến, mặt khác lại có một số lượng chủ thể khác tạm thời thiếu vốn để hoạt động, kinh doanh, đầu tư hoặc


tiêu dùng. Để giải quyết tình trạng này, NHTM đóng vai trò là trung gian, là nhịp cầu nối liền chủ thể thừa vốn và thiếu vốn trong nền kinh tế lại với nhau.

Có thể nói, ngân hàng là một đơn vị kinh doanh sản phẩm là đồng vốn. Ngân hàng vừa là nơi “cung cấp” đồng thời cũng là nơi “tiêu thụ” đồng vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động “mua, bán” này thường thông qua một số công cụ và nghiệp vụ ngân hàng từ truyền thống đến hiện đại. Chính nhờ các nghiệp vụ đa dạng do ngân hàng cung cấp mà nhiều nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng hiện đại ra đời, phát triển và gắn với chức năng trung gian tín dụng.

Hoạt động tín dụng của NHTM đã góp phần khắc phục các hạn chế trong quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ bổ sung. Với chức năng này, NHTM làm trung gian chuyển vốn tiền tệ từ nơi thừa đến nơi thiếu cho các chủ thể tham gia không có mối liên hệ trực tiếp với nhau, và điều này có vai trò to lớn đối với nền kinh tế, cụ thể:

Cá nhân, công ty, tổ

chức

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 3

Một mặt, ngân hàng tập trung hầu hết những nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và biến nó từ chỗ là phương tiện tích lũy thành nguồn vốn lớn cho nền kinh tế. Mặt khác, sử dụng nguồn vốn này cung ứng cho nền kinh tế sẽ giúp dòng vốn được luân chuyển nhiều lần, tăng hiệu quả sử dụng vốn.


Cá nhân, công ty, tổ chức

Nhận tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu,



chứng chỉ tiền gửi


Cấp tín dụng


NHTM


Sơ đồ 1.1: Chức năng trung gian tín dụng của NHTM


Chức năng trung gian tín dụng được hình thành ngay từ lúc các NHTM hình thành. Ngày nay, thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống xã hội.


(ii) Chức năng trung gian thanh toán và quản lý phương tiện thanh toán: NHTM đứng ra làm trung gian thanh toán để thực hiện các giao dịch giữa người mua với người bán, giữa các khách hàng với nhau nhằm hoàn tất các quan hệ kinh tế thương mại của các đối tượng nêu trên.

Xuất phát từ chức năng giữ tiền giúp các cá nhân, các doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự ủy nhiệm của khách hàng. Các NHTM thực hiện nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền hàng hóa và dịch vụ cho các cá nhân, doanh nghiệp theo lệnh của chủ tài khoản. Khách hàng sẽ mở tài khoản tại các NHTM và ra lệnh cho ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc ủy nhiệm cho ngân hàng thu các khoản phải trả từ người mua. Như vậy, các cá nhân, doanh nghiệp không phải thực hiện các công việc mất nhiều thời gian và công sức mà vẫn không đảm bảo an toàn như đếm tiền, nhận tiền,… trong quá trình thanh toán với các đối tác trong nền kinh tế.

Chức năng làm trung gian thanh toán của NHTM ngày nay, không chỉ đơn thuần và mang tính truyền thống như trước, mà cùng với sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại đã tạo điều kiện cho các NHTM thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử trực tuyến với nhau nhanh chóng và chính xác hơn, tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, thúc đẩy luân chuyển vốn và quá trình lưu thông hàng hóa ngày càng phát triển.

Đối với khách hàng thuộc các tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi tiền tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một sổ tài khoản để thuận lợi việc chi trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh lợi khác như các chương trình khuyến mại về phí dịch vụ, liên kết thanh toán,…

(iii) Chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng: nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng. Do vậy, ngoài chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, NHTM còn thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng, với những ưu thế của mình như hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp trong và ngoài nước, mối quan hệ với các khách hàng, hệ thống trang thiết bị thông tin hiện đại về kho quỹ,… nên có thể cung cấp các dịch vụ ngày càng đa dạng cho khách hàng như


tư vấn tài chính, đầu tư, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu đảm bảo hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí, dịch vụ cho thuê két sắt, bảo quản an toàn vật có giá, lưu trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán, chuyển lãi đó vào tài khoản cho khách hàng,… từ đó hỗ trợ NHTM thực hiện tốt hơn hai chức năng nêu trên.

1.1.2. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM

1.1.2.1. Khái niệm rủi ro


Có nhiều định nghĩa về rủi ro khác nhau. Đồng thời với nó có nhiều cách phân loại rủi ro khác nhau. Thuật ngữ “rủi ro” (risk) trong kinh tế học và kinh doanh đã được đưa ra từ lâu nhưng cho đến gần đây, với sự phát triển của ngành khoa học kinh tế lượng và các môn giúp lượng hoá các biến ngẫu nhiên trong hoạt động kinh tế và kinh doanh, “rủi ro” mới trở thành một đối tượng của nghiên cứu và kinh doanh.

Theo quan điểm truyền thống, rủi ro là những vận động không lường trước được của sự vật, hiện tượng và nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Tính “không lường trước được” có thể theo nghĩa khả năng xảy ra, diễn biến và mức độ. Rủi ro thường gắn với tổn thất.

Theo quan điểm trung hòa, rủi ro là sự bất trắc không thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những cơ hội nhất định. Nếu nghiên cứu, nhận dạng, đo lường và quản trị rủi ro, con người không chỉ tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, né tránh rủi ro thuần túy, hạn chế thiệt hại do rủi ro gây ra mà còn có thể tận dụng được những lợi thế mang lại kết quả tốt đẹp trong tương lai.

Có hai cách phân loại rủi ro:


Căn cứ vào tính chất, có hai loại rủi ro:


- Rủi ro tĩnh: là những rủi ro mà kết quả của nó chỉ có sự xuất hiện tổn thất, chứ không có khả năng sinh lời và không chịu tác động của những thay đổi trong nền kinh tế. Những rủi ro này chỉ liên quan đến các đối tượng như: tài sản, con người, trách nhiệm nhân sự.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023