Tác Động Của Cơ Chế Ftp Làm Thay Đổi Phương Thức Quản Trị Về Tài Vụ Nội Bộ Tại Chính Ngân Hàng:



tín dụng toàn hệ thống, tiềm năng phát triển trên địa bàn, chất lượng và hiệu quả tín dụng của chi nhánh.

Giới hạn dư nợ tín dụng trung, dài hạn: được thể hiện ở tỷ lệ tuyệt đối, bằng dư nợ trung, dài hạn trên tổng dư nợ đảm bảo thực hiện các cơ cấu về kỳ hạn theo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động ngân hàng.

Hạn mức đầu tư kinh doanh trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn:

Hội sở chính xây dựng chính sách đầu tư và trực tiếp thực hiện đầu tư kinh doanh, hoặc uỷ quyền cho các đơn vị kinh doanh thực hiện. Bao gồm:

Quản lý danh mục đầu tư

Quản lý hạn mức đầu tư: Hạn mức đầu tư được quy định đối với từng loại tài sản đầu tư, cụ thể: hạn mức đầu tư giấy tờ có giá, hạn mức đầu tư liên ngân hàng.

c. Tuân thủ các giới hạn kinh doanh:

Tỷ lệ thu nhập lãi ròng cận biên- NIM (Net Interest Margin)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Hằng năm, căn cứ kế hoạch tài chính, HSC xác định và thông báo tỷ lệ NIM tối thiểu của hệ thống và áp dụng cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động tại các CN. Trong từng thời kỳ, HSC có thể quy định tỷ lệ NIM thống nhất trong toàn hệ thống, hoặc phân biệt theo địa bàn, khu vực,…

Các CN có trách nhiệm tổ chức hoạt động kinh doanh, tính toán thu nhập lãi từ nghiệp vụ huy động vốn và cho vay đảm bảo đạt chỉ tiêu NIM theo quy định.

Giải pháp hoàn thiện việc ứng dụng cơ chế quản lý vốn tập trung tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh 7 Thành phố Hồ Chí Minh - 4

Các giới hạn rủi ro:

Hội đồng ALCO quyết định giá trị các chỉ số áp dụng để quản lý rủi ro của hệ thống, bao gồm:

- Giá trị tối đa (tối thiểu) của khe hở thanh khoản, khe hở nhạy cảm lãi suất, khe hở kỳ hạn;

- Giới hạn tối đa giá trị các khoản mục Tài sản Nợ- Tài sản Có không nhạy cảm với lãi suất trong từng thời kỳ;

- Các chỉ số thanh khoản: giá trị tối đa, tối thiểu của chỉ số dự trữ thanh toán, trong đó có chỉ số dự trữ sơ cấp; giá trị tối thiểu chỉ số thanh khoản trong một ngày,



bảy ngày, một tháng,..; tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung, dài hạn;

d. Quản lý rủi ro thanh khoản:

HSC tập trung quản lý rủi ro thanh khoản toàn ngành, trong đó bao gồm xác định nhu cầu thanh khoản trong từng thời điểm, thực hiện dự trữ thanh khoản, xây dựng và thực hiện các biện pháp bù đắp thiếu hụt thanh khoản, đề xuất xử lý khủng hoảng thanh khoản…

Việc quản lý thanh khoản cũng bao gồm cả việc mở, đóng và hoạt động của tài khoản Nostro. Đối với các tài khoản Nostro hiện tại, CN tiếp tục được duy trì hoạt động cho đến khi HSC yêu cầu đóng lại. HSC cũng chịu trách nhiệm thiết lập và công bố thời điểm dừng thanh toán; thực hiện điều chuyển vốn giữa các tài khoản Nostro theo yêu cầu quản lý thanh khoản hoặc yêu cầu của CN (nếu có); đối chiếu tài khoản Nostro…

e. Quản lý rủi ro lãi suất:

Lãi suất là yếu tố do thị trường quyết định có tác động rất lớn đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng. Chính vì vậy mà các ngân hàng phải chủ động điều chỉnh cơ cấu tài sản nợ hoặc tài sản có của mình để tăng lợi nhuận hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các tác động bất lợi của lãi suất.

Trên cơ sở xác định giới hạn của rủi ro có thể chấp nhận của ngân hàng, Ban quản lý rủi ro phối hợp cùng Ban nguồn vốn kinh doanh tiền tệ đề xuất các phương pháp quản lý, đồng thời đề xuất các hạn mức thực hiện đối với khe hở kỳ hạn và khe hở nhạy cảm lãi suất;

Xuất phát từ bản tổng kết tài sản và dự kiến diễn biến thị trường, định kỳ Ban nguồn vốn kinh doanh tiền tệ xây dựng các phương án duy trì giá trị khe hở trong giới hạn xác định, dự kiến mức độ rủi ro của từng phương án và đề xuất biện pháp quản lý rủi ro lãi suất.

f. Định giá chuyển vốn nội bộ:

Định giá chuyển vốn nội bộ là nội dung cơ bản của cơ chế quản lý vốn tập trung, là điều kiện cần thiết để quản lý các nội dung khác của cơ chế quản lý vốn tập



trung. Định giá chuyển vốn nội bộ sẽ chấm dứt việc điều chuyển vốn bằng tiền giữa Hội sở chính và chi nhánh, chuyển chức năng của chi nhánh thành các đơn vị kinh doanh (bán hàng) thực sự còn Hội sở chính là bộ phận quản lý, điều hành, điều hoà vốn trong toàn hệ thống.

Cơ chế định giá chuyển vốn cho thấy rò việc đo lường khả năng sinh lời. FTP cho thấy sự tách bạch giữa định giá tài sản có và định giá tài sản nợ, nghĩa là, việc đo lường khả năng sinh lời đã trở nên hữu ích hơn và chính xác hơn khi ngân hàng không còn cố liên kết những tài sản có riêng lẻ trong bảng cân đối với một tài sản nợ nữa. Thay vào đó, một bộ phận quản lý tập trung (thường được gọi là bộ phận quản lý vốn hay ngân quỹ) được thành lập để hoạt động như một nơi thực hiện bù trừ trong định giá vốn nội bộ.

Ngoài mục đích phục vụ việc đo lường khả năng sinh lời, FTP còn là một yếu tố không tách rời của chức năng quản lý tài sản có/ tài sản nợ: Toàn bộ hoạt động liên quan đến giao dịch vốn của đơn vị kinh doanh được chia thành hai phần: hoạt động bên Nợ (sử dụng vốn) chi nhánh phải mua vốn, đồng thời trả lãi cho Hội sở chính và hoạt động bên Có (huy động vốn) chi nhánh bán vốn, đồng thời được nhận lãi tương ứng từ HSC. Căn cứ để xác định giá mua - bán vốn là số tiền (quy mô giao dịch), đồng tiền giao dịch và kỳ hạn (danh nghĩa) của giao dịch đó.

Định kỳ, Hội sở chính xác định và thông báo giá mua vốn và bán vốn FTP tới các đơn vị kinh doanh, các đơn vị này căn cứ vào giá FTP cùng với các chỉ tiêu kế hoạch được giao, quyết định thực hiện các hoạt động kinh doanh tại đơn vị mình. Giá FTP là căn cứ để đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị kinh doanh và cũng là công cụ để Hội sở chính điều hành vốn trong toàn ngành nhằm hỗ trợ công tác quản lý thanh khoản, quản lý rủi ro lãi suất. Giá FTP được điều chỉnh đối với từng đối tượng khách hàng và từng sản phẩm cụ thể theo từng thời kỳ, chi nhánh thực hiện theo chỉ định của Hội sở chính như nợ vay được khoanh, cho vay chỉ định, cho vay theo kế hoạch, cho vay theo các chương trình, mục tiêu, theo cam kết của Tổng Giám Đốc…



1.2.3 Tác động của cơ chế FTP làm thay đổi phương thức quản trị về tài vụ nội bộ tại chính Ngân hàng:

Trước đây, trong từng hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là tại Việt Nam khi ngành Ngân hàng đang ở bước đầu phát triển, HSC là cơ quan đầu não nhưng chỉ ở mức chỉ đạo điều hành chung về các mặt nghiệp vụ, việc quản trị trực tiếp nguồn vốn và sử dụng vốn nằm ở từng chi nhánh trong quan hệ với khách hàng. Muốn nắm bắt tình hình của toàn hệ thống, HSC phải tập hợp báo cáo của các chi nhánh, mất nhiều thời gian.

Chương trình cập nhật tức thời chỉ là bước đệm trung gian, tuy cung cấp được thực trạng của tài khoản kế toán tại thời điểm cần lấy nhưng chưa đáp ứng yêu cầu về quản trị Ngân hàng (phải tổng hợp nhiều tài khoản kế toán khác nhau mới lấy được các cân đối cần thiết cho quản lý)

Với cơ chế FTP quyền hạn của chi nhánh bị thu hẹp rất nhiều so với trước đây. Ban điều hành thực sự lãnh đạo toàn đơn vị thông qua Ủy ban ALCO (Ủy ban điều hành Tài sản Nợ- Tài sản Có), ban hành chính sách mua bán vốn trong toàn đơn vị. Chi nhánh chỉ còn là điểm bán hàng (sales) theo mức giá của HSC. Các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay vốn, đầu tư, thu chi nghiệp vụ…đều được thực hiện thông qua cơ chế mua bán vốn với HSC (Ngân hàng Việt Nam đang tuân thủ nguyên tắc hạch toán toàn ngành, chi nhánh không được chi cấp vốn điều lệ để hoạt động độc lập thực sự).

Sự quản lý đã xuyên suốt từ HSC đến điểm giao dịch, đảm bảo phản ứng kịp thời trước môi trường kinh tế trong và ngoài nước biến động liên tục. Việc quản lý vốn tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh lãng phí, tập trung đầu tư cho các hoạt động sinh lời cao, điều mà ở tầm chi nhánh không thực hiện được.

HSC thể hiện đầy đủ chức năng và trách nhiệm của Trung tâm hơn, phân định rò nét trách nhiệm giữa điều hành của Trung tâm và thừa hành của cơ sở (sales).

Các nhà quản trị và điều hành cấp cao mong muốn tạo thể thống nhất trong toàn đơn vị, từ cách trang trí, dây chuyền làm việc, đồng phục, camera theo dòi, quan sát



từ xa… Họ muốn mọi chỉ đạo đều được thi hành răm rắp khắp đơn vị, xem đó là sức mạnh tổng hợp trong cạnh tranh.

Tất nhiên, mọi sự việc đều có tính hai mặt: ưu và nhược điểm, nhất là đối với dịch vụ Ngân hàng mang tính vừa kỹ thuật vừa nghệ thuật. Mọi nghiệp vụ của ngân hàng phải tuân thu quy trình chặt chẽ có sự hổ trợ của công nghệ, đồng thời giao dịch viên phải am hiểu tâm lý của từng nhóm khách hàng để lôi kéo và giữ chân họ.

1.3 Kinh nghiệm quản lý vốn của một số ngân hàng thương mại:

1.3.1 Kinh nghiệm của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV):

Hiện nay, BIDV đã hoàn thành Đề án chuyển đổi mô hình tổ chức Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn 2007-2010. Mục tiêu chuyển đổi mô hình tổ chức ngoài việc đảm bảo đáp ứng mô thức và yêu cầu quản trị hiện đại Ngân hàng thương mại theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, còn là bước chuẩn bị để BIDV chuyển đổi thành mô hình Tập đoàn tài chính – ngân hàng, qua đó giúp gia tăng giá trị của BIDV khi tiến hành cổ phần hóa.

Việc chuyển đổi mô hình được thực hiện từng bước theo lộ trình phù hợp. Trong đó, việc áp dụng mô hình cơ chế quản lý vốn được điều hành thông qua Trung tâm vốn tại Hội sở chính là một trong các bước chuyển đổi của BIDV nhằm xây dựng BIDV trở thành một ngân hàng hợp nhất theo hướng ngân hàng đa năng, tập trung hóa hoạt động và quyền lực tại Hội sở chính.

Với cơ chế quản lý vốn tập trung, toàn hệ thống là một ngân hàng duy nhất, xoá bỏ việc điều chuyển vốn bằng tiền trong hệ thống như hiện nay, chuyển sang áp dụng hệ thống định giá chuyển vốn nội bộ để xác định thu nhập, chi phí vốn định kỳ của từng chi nhánh và quan trọng là quản lý được các rủi ro trong công tác quản trị vốn như rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản.

Tuy nhiên để thực hiện chuyển đổi sang cơ chế quản lý vốn tập trung, hiện nay cần có những điều kiện sau:

- Về cơ sở vật chất: Để thực hiện cơ chế quản lý vốn tập trung cần có các điều kiện nhất định về cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ.



- Về nhận thức: cần phải nhận thức rằng chuyển đổi cơ chế quản lý từ phân tán sang tập trung là phù hợp với xu thế phát triển của hoạt động ngân hàng trình độ công nghệ thông tin tiến tiến và hiện đại trên thế giới.

- Về trình độ ứng dụng: Chuyển đổi sang phương thức quản lý nguồn vốn tập trung đòi hỏi mỗi đơn vị, mỗi cán bộ cần nghiên cứu, quán triệt những thay đổi cơ bản giữa hai cơ chế, những kiến thức quản lý ngân hàng hiện đại qua đó nhận thức rò trách nhiệm, nhiệm vụ của mình và đơn vị mình trong công tác quản lý vốn.

- Về tổ chức: Áp dụng cơ chế quản lý mới đòi hỏi đổi mới mô hình tổ chức cho phù hợp, phân công trách nhiệm quản lý rò ràng giữa các đơn vị.



1.3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc:

Trước khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành, sửa đổi, bổ sung hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật về tài chính, ngân hàng theo quy định của Hiệp định về thương mại – dịch vụ (GATS); tiến hành đổi mới hệ thống ngân hàng theo lộ trình riêng, tạo ra sự cạnh tranh “hạn chế” trong khu vực này và kết quả là hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã khá tự tin để chuẩn bị cho việc thực hiện cam kết tại GATS. Cụ thể :

Năm 1987 – 1988: cho phép thành lập TCTD nước ngoài tại một số thành phố và đặc khu kinh tế.

Năm 1987 – 1991: phát triển nhanh các trung gian tài chính phi ngân hàng và hợp tác xã tín dụng, cho phép các ngân hàng cạnh tranh theo cơ chế thị trường có kiểm soát.

Năm 1991 – 1996: đa dạng hóa khu vực tài chính, thành lập sở giao dịch chứng khóan và thị trường liên ngân hàng, thành lập ngân hàng Chính phủ, cho phép các TCTD nước ngoài được thành lập ở lĩnh vực phi ngân hàng như bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, mở rộng phạm vi họat động của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng nước ngoài được kinh doanh bằng nhân dân tệ và hoạt động tại 23 thành phố của Trung Quốc), đồng thời ban hành các quy định về mở cửa và giám sát các TCTD nước ngoài.

Năm 1997 – 2001: giải quyết vấn đề danh mục đầu tư của các NHTM. Việc chuẩn bị gia nhập WTO đã đẩy nhanh cải cách các NHTM nhà nước và tiếp tục nới lỏng hoạt động cho TCTD nước ngoài; thực hiện chương trình tái cơ cấu và hợp nhất trong khu vực tài chính, ngân hàng; tăng cường giám sát, buộc các NHTM tuân thủ nghiêm ngặt quy định của Ngân hàng Trung ương; đẩy mạnh cơ cấu lại khu vực tài chính trong nước; khuyến khích cạnh tranh trong nước bằng cách thành lập thêm nhiều ngân hàng thuộc sở hữu Chính phủ; mở cửa cho phép cạnh tranh quốc tế trong khu vực tài chính; tiếp tục cải cách pháp luật về ngân hàng, tài chính nhằm tăng khả năng cạnh tranh khu vực tài chính, ngân hàng sau khi là thành viên WTO.



Theo cam kết tại WTO, Trung Quốc đã chỉnh sửa hàng loạt luật và quy định triển khai; đồng thời thành lập một cơ quan đặc biệt để báo cáo kịp thời với WTO về các chính sách kinh tế và thương mại liên quan, việc thực hiện để đảm bảo tính minh bạch của các chính sách đó. Song song với việc hoàn chỉnh môi trường pháp lý, Chính phủ và Ngân hàng Trung Quốc đã thực hiện hàng loạt các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh và hỗ trợ cho khu vực ngân hàng, doanh nghiệp phát triển như: phát triển ngành tài chính theo nguyên tắc thị trường; nâng cao quản trị tại các NHTM bằng nhiều biện pháp khác nhau (tinh giảm khoảng 73% lãnh đạo, mời chuyên gia nước ngoài tham gia quản trị điều hành, giảm biên chế nhất là đối với số cán bộ trình độ thấp,…); giảm tốc độ cho vay; tăng cường đào tạo,….

Trung Quốc kế thừa tập đoàn Bank of China (BOC) có những hoạt động lâu đời ở hải ngoại cũng như kinh nghiệm hàng trăm năm quản lý. Trung Quốc sớm tiếp cận mô hình Ngân hàng đa năng đa quốc gia ở phương Tây. Để tồn tại và phát triển đến ngày nay, BOC phải quản lý vốn theo cách của các tập đoàn tài chính ngân hàng khác trên thế giới mà lãnh đạo ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam tiếp thu.

1.3.3 Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN)

Phần lớn các nước ASEAN gia nhập WTO từ 1995, nhưng hầu như không phải thực hiện các nghĩa vụ của GATS. Cuộc khủng hoảng tài chính (năm 1997) buộc họ cải cách hệ thống ngân hàng theo các quy định của GATS và đạt những kết quả đáng kể, nhờ đó, hệ thống ngân hàng tại các nước này giữ được vai trò chủ đạo trong việc huy động tiết kiệm ở mức rất cao. Mặt khác, các nước ASEAN đã tiến hành đổi mới mạnh mẽ cơ chế theo hướng mở rộng cửa, xóa bỏ rào cản cho các ngân hàng nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài; nhờ vậy, thu hút một lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nợ vay chính thức của Chính phủ; giúp nền kinh tế thóat khỏi khủng hoảng và phát triển nhanh chóng.

Chính phủ các nước này đã cải cách hệ thống ngân hàng một cách triệt để, tạo ra môi trường thuận lợi cho các sở hữu khác nhau về ngân hàng phát triển, đồng thời thâm nhập nhanh chóng vào thị trường thế giới.

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí