Quản Lý Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại



vốn chủ sở hữu có giá trị quan trọng về mặt tâm lý. Nếu những người gửi tiền và vay tiền tin tưởng rằng một ngân hàng có đủ vốn để vượt qua những khó khăn nhất định, họ sẽ không đồng loạt rút tiền gửi và người vay tiền có xu hướng thực hiện nghĩa vụ của mình tốt hơn.

Thứ tư, Vốn chủ sở hữu giúp điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng. Với góc độ hạn chế rủi ro cho người gửi tiền, rất nhiều hoạt động của ngân hàng được quy định liên quan chặt chẽ với vốn chủ sở hữu. Ví dụ: quy mô huy động tiền gửi được tính theo tỷ lệ với vốn chủ sở hữu, quy mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách hàng, quyền đầu tư vào chứng khoán của công ty, số lượng chi nhánh, giá trị tài sản cố định, danh mục tài sản rủi ro... đều tính theo tỷ lệ với vốn chủ sở hữu. Vì vậy, quy mô, cấu trúc và sự phát triển hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo vốn chủ sở hữu tại rất nhiều các quốc gia. Mặt khác, cơ cấu vốn chủ sở hữu có tác động quan trọng tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

1.2.2. Quản lý của ngân hàng trung ương đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại

1.2.2.1. Khái niệm, mục tiêu quản lý của ngân hàng trung ương đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại

Khái niệm

Quản lý là khái niệm phổ biến và quan trọng. Trong kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước ngày càng gia tăng vai trò quản lý các hoạt động của nền kinh tế để giảm bớt các tiêu cực của kinh tế thị trường, tăng cường sự hoạt động nhất quán của các chủ thể kinh tế thông qua nhiều hình thức, công cụ, phạm vi, mức độ khác nhau. Hoạt động quản lý của NHTW đối với NHTM là quá trình thực hiện các hoạt động hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra, thanh tra, giám sát các NHTM nhằm đạt các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Quản lý của ngân hàng trung ương đối với vốn chủ sở hữu ngân hàng thương mại thực chất là xác định và thanh tra giám sát việc thực hiện quy mô, cấu trúc vốn chủ sở hữu ngân hàng sao cho phù hợp với yêu cầu an toàn vốn và phòng ngừa rủi ro cho các NHTM, nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM.



Mục tiêu quản lý

- Xây dựng một hệ thống ngân hàng ổn định, NHTW thiết lập những đòi hỏi về vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo mức độ an toàn đối với các ngân hàng, hạn chế được những tổn thất xảy ra và bảo vệ cho người gửi tiền.

- Yêu cầu về mức đủ vốn của NHTW là một chỉ dẫn quan trọng cho công chúng biết về uy tín của ngân hàng. Vốn ngân hàng càng lớn, càng tạo cho người gửi tiền niềm tin và tâm lý an toàn.

- Một mục tiêu quan trọng của quản lý vốn chủ sở hữu là tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý, hạn chế tình trạng tăng vốn ảo, thâu tóm ngân hàng. Đứng ở góc độ cơ quan quản lý (NHTW), cơ cấu vốn chủ sở hữu hợp lý phải đảm bảo ngân hàng có đủ vốn chủ sở hữu để phòng ngừa được các rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Đứng trên góc độ các cổ đông/người sở hữu ngân hàng, một cơ cấu vốn chủ sở hữu được coi là tối ưu khi vốn đó đảm bảo triển khai được mô hình kinh doanh, đem lại lợi ích tối đa trên mỗi đồng vốn, bù đắp được những khoản tổn thất ngoài dự kiến, đảm bảo các tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của pháp luật. Cơ cấu vốn chủ sở hữu bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2, trong đó, quản lý vốn cấp 1 có vai trò quan trọng vì nó có ảnh hưởng lớn đến hoạt động ổn định của ngân hàng. Quản lý vốn cấp 1 là việc xác định quy mô và cấu trúc vốn sao cho phù hợp với yêu cầu đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tăng cường khả năng chịu đựng rủi ro của các TCTD trước những cú sốc của thị trường. Để bảo vệ những người gửi tiền và xây dựng một hệ thống ngân hàng ổn định, NHTW đã thiết lập những yêu cầu về vốn cấp 1. Đây là chỉ tiêu quan trọng cho công chúng biết về uy tín của ngân hàng. Do vậy, yêu cầu đặt ra với các NHTM là phải coi quản lý vốn cấp 1 như một bộ phận quan trọng của quản lý vốn ngân hàng. Ngoài ra, các yêu cầu quản lý về vốn cấp 2 là vô cùng quan trọng để giảm thiểu các tính toán ảo về vốn chủ sở hữu mà các NHTM có thể thực hiện nhằm đạt các yêu cầu quản lý của NHTW nhưng không thể hiện đúng bản chất và quy mô vốn chủ hữu.



1.2.2.2. Cơ sở pháp lý về quản lý của ngân hàng trung ương đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại

Các thông lệ và quy định của các tổ chức tài chính quốc tế

Tại mỗi quốc gia, hệ thống ngân hàng luôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, an toàn trong hoạt động là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của hệ thống ngân hàng. Để ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng, một Ủy ban về giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi các đại diện cấp cao các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng và bản thân Ngân hàng trung ương các nước nhóm phát triển G-10 - Ủy ban Basel (gồm các nước: Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Hà Lan, Canada, Bỉ, Italia, Nhật Bản, Thụy Điển). Ủy ban này đưa ra các chuẩn mực về an toàn hoạt động cũng như các nguyên tắc giám sát việc thực hiện các chuẩn mực đó. Trong nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia đều có những mối quan hệ và lợi ích kinh tế ảnh hưởng lẫn nhau, do đó, sự mất an toàn của bất cứ một hệ thống ngân hàng nào đều có mức ảnh hưởng nhất định tới sự ổn định tài chính của các nước khác. Vì vậy, các chuẩn mực trên được khuyến nghị áp dụng đối với các nước và trở thành cơ sở pháp lý chung cho việc quản lý của ngân hàng trung ương đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại [13].

Hiện nay, hiệp ước quốc tế về vốn Basel có ba phiên bản: Basel 1, Basel 2 và Basel 3. Phiên bản sau là sự kế thừa, bổ sung và khắc phục những hạn chế của phiên bản trước. Basel 1 dừng lại ở việc đưa ra định nghĩa quốc tế chung nhất về vốn ngân hàng, đưa ra tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% của ngân hàng và đề cập tới rủi ro tín dụng. Basel 2 vẫn duy trì CAR 8% nhưng đã khắc phục những hạn chế của Basel 1 là đề cập đến cả rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường trong việc quản lý vốn ngân hàng đồng thời xây dựng ba trụ cột chính về an toàn vốn, Basel 2 hiện được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới. Basel 3 đưa ra những quy định mới về khái niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu cao hơn (CAR 11,5%), cùng phương pháp giám sát an toàn vĩ mô được đánh giá là sự thay đổi lịch sử trong quy định về hoạt động ngân hàng, tuy nhiên Basel 3 mới được triển khai ở một vài nước [21]. Song cũng cần phải thấy rõ các yêu cầu về vốn đối với các NHTM ngày càng được nâng cao, điều



này có tác động rất lớn đến nhu cầu vốn của NHTM khi triển khai tuân thủ về an toàn vốn theo Basel. Để sát với vốn thực tế tại các NHTM Việt Nam và mốc thí điểm triển khai Basel 2 từ năm 2015, trong khuôn khổ luận án, tác giả đề cập đến Basel 2 làm cơ sở pháp lý chung cho đề tài.

Theo đó, ngân hàng trung ương quản lý vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại dựa trên quy định về an toàn vốn và phòng ngừa rủi ro trong Basel 2 với 3 trụ cột chính:

Trụ cột thứ nhất – Các yêu cầu vốn tối thiểu [13], [21], [43]

Theo quy định trong Basel 2, một tổ chức tài chính được gọi là đủ vốn khi tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Capital Adequacy Ratio – CAR) đạt tối thiểu 4% đối với vốn cấp 1 và 8% đối với vốn cấp 2. Tỷ lệ CAR [37] được tính theo công thức:

Vốn ngân hàng – Các khoản giảm trừ

Tỷ lệ an toàn vốn

khỏi vốn ngân hàng

tối thiểu = Tài sản có điều chỉnh rủi ro 8%

Vốn ngân hàng [13]: Vốn ngân hàng bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2.

Theo Basel 2, Vốn ngân hàng được giới hạn bởi một số quy định:

Tổng vốn cấp 2 được đưa vào tính toán tỷ lệ CAR không được quá 100% vốn cấp 1;

Nợ thứ cấp tối đa bằng 50 % vốn cấp 1;

Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tài sản có rủi ro; Dự trữ tài sản đánh giá lại được chiết khấu 55%;

Thời gian đáo hạn còn lại của nợ thứ cấp tối thiểu là 5 năm; Vốn ngân hàng không bao gồm vốn vô hình.

Các khoản giảm trừ khỏi vốn ngân hàng

Tùy vào tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng từng nước, các khoản giảm trừ khỏi vốn ngân hàng được quy định cụ thể. Nhìn chung, các khoản này có thể bao gồm: lợi thế thương mại, khoản lỗ kinh doanh, các khoản góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng khác, các khoản góp vốn, mua cổ phần của công ty trực thuộc,…

Tài sản có điều chỉnh rủi ro (RWA - Risk Weighted Assets)

Bên cạnh rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đã được quy định trong Basel 1,



Basel 2 bổ sung thêm rủi ro hoạt động. Do đó, cách tính RWA trong Basel 2 phức tạp hơn so với Basel 1 và có khả năng đánh giá chính xác mức độ an toàn vốn.

- Rủi ro tín dụng [43], Basel 2 đưa ra các phương pháp đo lường:

+ Phương pháp chuẩn hóa :

Tài sản có điều chỉnh rủi ro (RWA): = Tài sản * Hệ số rủi ro

Mỗi loại tài sản sẽ được gắn cho một trọng số rủi ro. Ở Basel 1 trọng số rủi ro của tài sản được chia thành 4 mức là 0%, 20%, 50% và 100% theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản, không đề cập đến xếp hạng tín nhiệm. Basel 2 đã khắc phục nhược điểm này, không áp đặt hệ số rủi ro cho từng khoản mục mà còn tùy thuộc xếp hạng tín nhiệm của chủ nợ. Ngoài ra, điểm khác biệt nữa trong Basel 2 là nợ được chia thành 5 nhóm có trọng số lần lượt là 0%, 20%, 50%, 100% và 150%.

+Phương pháp xếp hạng nội bộ (IRB) cơ bản và nâng cao:

RWA = 12.5 * EAD * K

Trong đó:

EAD: Exposure at Defalt – Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ.

K – Capital Required: Tỷ lệ vốn cần thiết để dự phòng những trường hợp RRTD không lường trước nhưng lại xảy ra.

Với phương pháp này, Basel 2 đưa ra cách xác định vỡ nợ, kỳ đáo hạn hiệu dụng, tỷ trọng tổn thất tín dụng, từ đó tính toán tài sản Có rủi ro quy đổi. Điều này xác định chính xác hơn vốn yêu cầu tối thiểu đối với rủi ro tín dụng đồng thời phân biệt vốn yêu cầu tối thiểu giữa các khoản cho vay đối với từng đối tượng.

- Rủi ro hoạt động, Basel 2 đưa ra ba cách tính vốn tối thiểu cho rủi ro này [18]:

+ Cách tiếp cận chỉ số cơ bản (BIA) – the Basic Indicator Approach:

Theo cách này, để tính toán lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo đối với rủi ro hoạt động, ngân hàng lấy tổng thu nhập bình quân hàng năm của những năm có thu nhập dương trong ba năm gần nhất nhân với 0,15 (hệ số này do Basel 2 quy định). Tổng thu nhập bình quân bằng thu nhập thuần từ tiền lãi cộng với thu nhập thuần không phải từ



lãi, là thu nhập trước khi trích lập dự phòng, không bao gồm các khoản lãi lỗ thu được từ kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và các khoản thu nhập bất thường.

KBIA = [ ∑ (GI1….n * α) ] / n Trong đó:

KBIA: chi phí vốn cho cách tiếp cận chỉ số cơ bản

GI: tổng thu nhập bình quân dương hàng năm trong ba năm; n: Số năm có thu nhập dương trong ba năm

α: bằng 0,15

+ Cách tiếp cận chuẩn hóa (STA) – The Standardised Approach:

Với cách này, hoạt động ngân hàng được chia làm 8 lĩnh vực kinh doanh. Ngân hàng sẽ tính toán lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo cho từng lĩnh vực kinh doanh bằng cách nhân thu nhập thuần từ lĩnh vực đó với các hệ số tương ứng dưới đây. Lượng vốn tối thiểu đối với rủi ro hoạt động của toàn ngân hàng sẽ bằng tổng vốn tối thiểu của từng lĩnh vực kinh doanh.

Bảng 1.2: Hệ số trong cách tiếp cận chuẩn hóa


Lĩnh vực kinh doanh

Hệ số β (%)

Tài trợ doanh nghiệp

18

Các hoạt động mua bán

18

Hoạt động ngân hàng bán lẻ

12

Hoạt động ngân hàng thương mại

15

Thanh toán

18

Dịch vụ đại lý

15

Quản lý tài sản

12

Môi giới bán lẻ

12

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.

Quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 5

Nguồn: Basel 2, giáo trình ngân hàng thương mại năm 2013 (Đại học KTQD)

Tổng vốn cần thiết được tính bằng công thức: KSTA = { ∑năm 1-3 max [ ∑(GI1-8 x β1-8), 0] } / 3



Trong đó:

KSTA: tổng vốn theo cách tiếp cận STA;

GI1-8: tổng thu nhập hằng năm của một lĩnh vực kinh doanh;

β1-8: tỷ lệ cố định theo bảng trên;

+ Cách tiếp cận đo lường nội bộ nâng cao (AMA) – Advanced Mesurement Aproach:

Theo cách tiếp cận này, mức vốn tối thểu ngân hàng cần duy trì sẽ tương đương với mức rủi ro mà ngân hàng tính toán được bằng hệ thống đo lường rủi ro hoạt động nội bộ của ngân hàng. Tuy nhiên, để áp dụng cách tiếp cận này, một ngân hàng phải đảm bảo các tiêu chuẩn định tính và định lượng do Ủy ban đề ra và phải được cơ quan thanh tra giám sát chấp nhận nên cách này ít thông dụng so với cách tiếp cận STA.

- Rủi ro thị trường [43], Vốn yêu cầu được tính thêm phần vốn cấp 3 gồm các khoản nợ phụ thuộc ngắn hạn với mục đích dự trữ. Vốn yêu cầu tối thiểu được tính qua các phương pháp:

+ Phương pháp chuẩn hóa:

Phương pháp này xem xét từng yếu tố rủi ro bao gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro hàng hóa và rủi ro trạng thái vốn. Các quy định cụ thể về cách tính vốn tối thiểu với từng loại rủi ro được đề cập trong phần A của tài liệu “Điều chỉnh của hiệp ước tiêu chuẩn vốn liên quan đến rủi ro thị trường” do Ủy ban ban hành vào tháng 11/2005.

+ Phương pháp mô hình nội bộ:

Khi áp dụng phương phương pháp này, ngân hàng phải được sự cho phép của cơ quan giám sát và phải đáp ứng được các yêu cầu như: hệ thống quản trị rủi ro tương thích, hiện đại, đầy đủ dữ liệu cần thiết; chuyên viên có trình độ chuyên môn được trang bị kỹ năng sử dụng các mô hình phức tạp; mô hình của ngân hàng được cơ quan giám sát đánh giá có chất lượng, đã qua kiểm định về tính chính xác và hợp lý khi đo lường rủi ro. Đây là phương pháp đòi hỏi yêu cầu cao nên không



nhiều ngân hàng áp dụng phương pháp này.

Trụ cột thứ hai - Tăng cường cơ chế giám sát [13]

Với trụ cột này, Basel 2 tập trung vào việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro. Quy trình kiểm tra kiểm soát vừa đảm bảo rằng ngân hàng có đủ vốn để giải quyết tất cả các rủi ro vừa khuyến khích ngân hàng kiểm soát và quản lý các rủi ro thông qua phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn. Có bốn nguyên tắc chính được đề cập trong trụ cột hai:

Nguyên tắc 1: Ngân hàng nên có quy trình đánh giá tổng quan mức độ an toàn vốn, quản lý hồ sơ rủi ro của ngân hàng và một chiến lược duy trì các mức vốn. Các thuộc tính chính của một quy trình chặt chẽ bao gồm [1]:

- Giám sát của hội đồng quản trị và ban điều hành;

- Ước tính mức vốn hợp lý;

- Đánh giá toàn diện các rủi ro;

- Giám sát và báo cáo;

- Xem xét đánh giá hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ.

Nguyên tắc 2: Cơ quan giám sát cần kiểm tra và đánh giá các chiến lược và công tác đánh giá mức đủ vốn nội bộ của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo sự tuân thủ các tỷ lệ vốn của các ngân hàng thương mại. Cơ quan giám sát cần phải có những biện pháp xử lý phù hợp nếu họ không đồng ý với kết quả của quy trình giám sát.

Nguyên tắc 3: Cơ quan giám sát yêu cầu ngân hàng duy trì các chỉ số an toàn vốn ở mức cao hơn tỷ lệ vốn điều chỉnh tối thiểu và phải có khả năng yêu cầu các đơn vị thành viên duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu.

Nguyên tắc 4: Cơ quan giám sát phải có biện pháp can thiệp ngay ở giai đoạn đầu tiên để ngăn mức vốn không xuống thấp hơn mức tối thiểu, giải quyết những thuộc tính rủi ro của một ngân hàng nhất định và cần có hành động giải quyết tức thì nếu vốn không duy trì hoặc khôi phục được.

Trụ cột thứ ba – Tuân thủ kỷ luật thị trường [1]

Xem tất cả 199 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí