Thu Nhập, Chi Phí Và Lợi Nhuận Của Ngân Hàng Thương Mại:



NHTM là một doanh nghiệp, cho nên mọi nghiệp vụ Ngân hàng đều đóng góp vào lợi nhuận chung của Ngân hàng. Cũng như doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quan tâm đến giá thành sản phẩm và lợi nhuận thực hiện, NHTM thông qua các nghiệp vụ của mình, tạo ra lợi nhuận hạch toán từ chênh lệch giữa thu nhập và chi phí trong hoạt động kinh doanh.

1.1.4 Thu nhập, chi phí và lợi nhuận của ngân hàng thương mại:

1.1.4.1 Thu nhập của ngân hàng thương mại:

Thu nhập được hình thành từ các khoản tiền mà NHTM được phép thu của khách hàng khi cung cấp dịch vụ cho họ. Tính theo từng món, khoản thu này thường khá thấp, vừa sức chịu đựng của khách hàng và còn chịu sự tác động của cạnh tranh giữa các Ngân hàng trên thị trường, cho nên Ngân hàng sống theo quy luật số nhiều: cung cấp được nhiều dịch vụ có những tiện ích đáp ứng đúng nhu cầu của người sử dụng, thúc đẩy khách hàng hiện có sử dụng nhiều lần. Tiếp theo, họ quảng bá lôi kéo nhiều người khác cộng thêm với tác động của công tác tiếp thị từ chính Ngân hàng nhằm mở rộng thị phần.

Thu nhập của ngân hàng bao gồm bốn khoản mục lớn:

Thu về hoạt động tín dụng (thu lãi cho vay, thu lãi chiết khấu, phí cho thuê tài chính, phí bảo lãnh,…)

Thu về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ (thu lãi tiền gửi, dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ,…)

Thu từ các hoạt động khác như:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Giải pháp hoàn thiện việc ứng dụng cơ chế quản lý vốn tập trung tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh 7 Thành phố Hồ Chí Minh - 3

Thu lãi góp vốn, mua cổ phần. Thu về bán chứng khoán.

Thu kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý.

Thu về các nghiệp vụ tài trợ thương mại.

Thu về nghiệp vụ ủy thác, đại lý. Thu dịch vụ tư vấn.

Thu kinh doanh bảo hiểm.



Thu dịch vụ ngân hàng khác (bảo quản cho thuê tủ két sắt, cầm

đồ…)

Các khoản thu khác bất thường

Ngân hàng thường hạch toán theo dòi phần thu vào một nhóm Tài khoản riêng có chung một đầu số hiệu. Các nhà quản trị Ngân hàng luôn muốn biết: (1) các dịch vụ nào đang là thế mạnh của Ngân hàng mình để lo chăm chút và nhân rộng ra. Dịch vụ nào không có sức cạnh tranh thì nên thu gọn lại. Ngân hàng sẽ có biện pháp tập trung củng cố để vực dậy các nghiệp vụ nào có tiềm năng phát triển. (2) Khả năng giảm định mức thu để kích cầu với mong muốn sẽ thu nhiều hơn khi mở rộng ra nhiều người sử dụng hơn.

1.1.4.2 Chi phí của ngân hàng thương mại:

Chi phí của NHTM thường được phân loại theo các nhóm sau:

Chi về huy động vốn bao gồm:

Trả lãi tiền gửi.

Trả lãi tiền tiết kiệm. Trả lãi tiền đi vay.

Trả lãi kỳ phiếu, trái phiếu…

Chi về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ bao gồm:

Chi về dịch vụ thanh toán.

Chi về ngân quỹ ( vận chuyển, kiểm đếm, bảo vệ, đóng gói,…) Cước phí viễn thông bưu điện.

Chi về dịch vụ khác.

Chi về các hoạt động khác gồm:

Chi mua chứng khoán.

Lỗ về kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý.

Chi nộp thuế, các khoản phí, lệ phí… Chi về tài sản gồm:

Khấu hao tài sản cố định.

Chi sửa chữa tài sản.



Chi mua công cụ, dụng cụ. Chi thuê mặt bằng, trụ sở…

Chi vật liệu giấy tờ in.

Chi trích lập dự phòng rủi ro bao gồm:

Dự phòng chung. Dự phòng cụ thể.

Chi cho nhân viên gồm:

Lương, phụ cấp cho cán bộ, nhân viên. Trang phục, bảo hộ lao động.

Bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế… Trợ cấp khó khăn, trợ cấp thôi việc cho nhân viên.

Chi về công tác xã hội.

Chi khác:

Có cách phân loại khác như chi phí bất biến và chi phí khả biến song Bộ Tài chính và NHNN Việt Nam đã chọn cách phân loại trên, và NHTM cần quản lý chi tiết theo từng khoản mục. Có những khoản chi sẽ tăng tỷ lệ theo doanh số phát triển ví dụ huy động vốn tăng thì phải trả lãi huy động nhiều hơn. Chi trích lập dự phòng có thể là điều tốt khi cuối cùng rủi ro không xảy ra và Ngân hàng được hoàn dự phòng. Trong thời gian chờ đợi, mức trích lập dự phòng được xem như một kiểu dấu bớt lợi nhuận. Trong trường hợp ngược lại, chi trích lập dự phòng được xem là khoản trích trước cho một món thiệt hại trong tương lai. Khi doanh số tăng khoản chi cho nhân viên thường không tăng tương ứng để đảm bảo hiệu suất lao động cao.

Tại Việt Nam, các NHTM có gốc Nhà nước luôn bị các cơ quan tài chính thuế vụ kiểm tra chặt chẽ từng khoản mục chi, nhất là các khoản chi trong kinh doanh ngọai tệ, vàng bạc đá quý, các khoản chi về tài sản, chi cho nhân viên, trích lập dự phòng. Việc kiểm soát này được nới lỏng đối với các NHTMCP.

Trong suốt niên độ kế toán, các khoản thu chi được tích lũy dần theo thực tế phát sinh. Khi dứt niên độ, các khoản này mới được kết chuyển một lần để cho ra



kết quả kinh doanh chính thức của Ngân hàng. Thu và chi luôn được hạch toán tách bạch, mọi sự điều chỉnh phải kèm giải trình rò ràng, được lãnh đạo phê duyệt.

Các NHTM áp dụng kỹ thuật dự thu dự trả cho tiền gửi, tiền vay để đảm bảo hạch toán đủ thu nhập chi phí qua từng tháng. Theo hợp đồng tín dụng, phải đúng tháng Ngân hàng mới thu lãi vay (chưa kể trường hợp thu lãi một lần khi đến hạn). Phải đúng tháng hay đúng kỳ hạn gửi, Ngân hàng mới nhập lãi cho khách gửi tiền. Nhờ phần mềm kỹ thuật, cuối mỗi ngày, Ngân hàng tính được khoản dự thu / dự trả này để hạch toán chính xác.

1.1.4.3 Lợi nhuận của ngân hàng thương mại:

Lợi nhuận của NHTM gồm hai chỉ tiêu Lợi nhuận trước thuế Tổng thu nhập 31

Lợi nhuận của NHTM gồm hai chỉ tiêu:


Lợi nhuận trước thuế = Tổng thu nhập- Tổng chi phí


Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập

Qua hai công thức trên, ta nhận thấy muốn tăng lợi nhuận thì cần tăng thu nhập bằng cách mở rộng tín dụng, tăng cường đầu tư và đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng; đồng thời giảm các khoản chi phí của ngân hàng, trong đó tập trung quản lý và tiết kiệm các chi phí về nhân viên và các khoản chi khác.

Để đánh giá chất lượng kinh doanh của NHTM người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:

Chỉ tiêu so sánh giữa lợi nhuận (lãi ròng) với tổng tài sản Có trung bình- Gọi là hệ số ROA (Return on assets)

ROA =


Cho thấy một đồng tài sản Có tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy chất lượng của công tác quản lý tài sản Có (tích sản). Tài sản Có sinh lời càng lớn thì hệ số nói trên sẽ càng lớn.

Chỉ tiêu so sánh giữa lợi nhuận thuần với vốn tự có bình quân của ngân hàng, phản ảnh qua hệ số ROE (Return on Ẹquity)


ROE  Cho thấy một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi 36

ROE =



Cho thấy một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, khả năng sinh lợi trên một đồng vốn của ngân hàng. Hệ số càng lớn, khả năng sinh lời tài chính càng lớn.

Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi là chỉ tiêu so sánh giữa lợi nhuận ròng với số tài sản Có sinh lời.

P =


Trong đó tài sản Có sinh lời bao gồm: Các khoản cho vay, đầu tư chứng

khoán, tài sản Có sinh lời khác.

Chỉ tiêu này cho thấy hiệu suất sinh lời của tài sản Có sinh lời. Tỷ suất này càng gần ROA thì hiệu suất sử dụng tài sản của ngân hàng càng lớn.

1.2 Quản trị ngân hàng và cơ chế quản lý vốn tập trung:

1.2.1 Yêu cầu quản trị Ngân hàng hiện đại:

Từ khi chuyển theo kinh tế thị trường, đặc biệt từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, quản trị doanh nghiệp trở thành một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong phát triển kinh tế. Quản trị tốt sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên cung ứng nguồn tài chính cùng các sản phẩm thay thế tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác trong nền kinh tế. Sự ổn định của một NHTM không chỉ ảnh hưởng đến bản thân đơn vị đó mà còn ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp khách hàng khác mà nó đang phục vụ và luôn cả những Ngân hàng và khách hàng khác theo tác động dây chuyền.

Ngoài ra, trong NHTM, sự thiếu minh bạch của một số thông tin tài chính khiến khó đánh giá chất lượng và rủi ro hoạt động cho nên cần đưa ra các quy định cụ thể nhằm đảm bảo an toàn như dự trữ bắt buộc, quỹ đảm bảo thanh toán, xếp hạng tín nhiệm, phân loại nợ,…



Từ lâu, người ta quan tâm đến chất lượng hoạt động Ngân hàng nhưng tính phức tạp của hạch toán kế toán ít nhiều tạo nên rào cản. Xưa kia, Ngân hàng chỉ quyết toán tổng kết mỗi năm một lần, thêm một lần sơ kết giữa năm. Ngành điện toán phát triển cho phép chiết xuất số liệu hàng quý rồi hàng tháng phục vụ yêu cầu quản lý Ngân hàng. Các phần mềm cập nhật tức thời hiện nay cho phép chiết xuất số liệu để quản lý Ngân hàng hằng ngày nhưng chỉ ở góc độ tổng thể.

Trong khi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quản lý chi phí và hiệu quả ở từng nhà máy, từng phân xưởng, từng tổ đội lao động, từng thành phẩm và bán thành phẩm, các nhà quản trị ngân hàng rất muốn nắm từng đơn vị thành viên, từng chi nhánh, từng phòng giao dịch, từng phòng ban, từng sản phẩm tài chính cung ứng ra. Về nguyên lý đây là yêu cầu rất chính đáng. Trong thực tế, cần nhiều bước tiến về công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu của nhà quản trị ngân hàng.

Trong cùng một NHTM, nếu giao nhiều quyền tự chủ cho chi nhánh, tư tưởng vị kỷ, cục bộ sẽ phát sinh, gây lãng phí, đồng thời làm mất đi tính hệ thống, tương trợ giữa các chi nhánh với nhau. Có chi nhánh có thanh khoản rất tốt trong khi chi nhánh khác phải đi vay thanh toán với lãi suất cao. Cơ chế QLVTT khắc phục được tình trạng này trên cơ sở quản lý tập trung rủi ro và nguồn vốn.

1.2.2 Tổng quan về cơ chế quản lý vốn tập trung:‌

1.2.2.1 Khái niệm cơ chế quản lý vốn tập trung:

Theo quy định số 210/QĐ-NHCT3 Ngày 11/04/2011 “Cơ chế QLVTT còn gọi là cơ chế FTP (Fund Transfer Pricing), là cơ chế quản lý vốn từ Trung tâm vốn đặt tại HSC. Theo đó, các chi nhánh trở thành các đầu mối kinh doanh, thực hiện mua bán vốn với HSC (thông qua Trung tâm vốn). HSC sẽ mua toàn bộ tài sản Nợ mà chi nhánh huy động được và bán vốn để chi nhánh sử dụng cho tài sản Có. Từ đó, thu nhập/chi phí của từng chi nhánh được xác định thông qua chênh lệch mua bán vốn với HSC. Rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất được tập trung về HSC”.

1.2.2.2 Nguyên tắc thực hiện cơ chế QLVTT:

Nguyên tắc này bao gồm những nội dung sau:



Quan hệ điều chuyển vốn nội bộ thông qua cơ chế “mua/bán” vốn: Cách điều hành vốn nội bộ được chuyển từ cơ chế “vay/gửi” sang cơ chế “mua/bán” vốn. Cùng với sự chuyển đổi này, toàn bộ rủi ro về vốn (rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất) sẽ được chuyển về HSC. Lãi suất hay giá của hoạt động “mua/bán” vốn (giá chuyển vốn FTP) trong từng thời điểm do HSC xác định và thông báo tới các chi nhánh.

QLVTT và thống nhất tại HSC nhằm xây dựng cho cả hệ thống một bảng tổng kết tài sản thống nhất và duy nhất, đảm bảo kiểm soát thu nhập - chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, phát huy thế mạnh của từng đơn vị kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận.

Giá chuyển vốn: Đây là công cụ quan trọng trong công tác điều hành vốn tại HSC và là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động trong kỳ của mỗi chi nhánh. Hiệu quả hoạt động của chi nhánh sẽ được đánh giá chuẩn xác theo tiêu thức thống nhất trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất thực hiện với khách hàng và giá chuyển vốn nội bộ.

Ví du: Khi chi nhánh huy động được 1.000.000 vnđ từ khách hàng A với lãi suất 8% kỳ hạn 3 tháng, đồng thời HSC sẽ mua lại khoản tiền trên với lãi suất 9.5% (giá FTP) với cùng kỳ hạn mà khách hàng đăng ký gửi. Khoản chênh lệch lãi suất 1.5% là thu nhập của chi nhánh. Đây là phương pháp thống nhất và duy nhất mà HSC áp đặt cho chi nhánh trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của chi nhánh.

Chuyển rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất về HSC: Quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất được thực hiện thông qua các giới hạn, hạn mức và phân cấp, ủy quyền đến các bộ phận theo quy định của Tổng giám đốc bằng văn bản cụ thể. Chi nhánh thực sự trở thành đầu mối kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận từ các dịch vụ cung cấp cho khách hàng.

Tóm lại, cơ chế QLVTT cho phép HSC của ngân hàng kiểm soát hoạt động của từng đơn vị chi nhánh chặt chẽ, giảm thiểu chi phí, nâng cao năng lực kinh doanh và góp phần tăng lợi nhuận .



1.2.2.3 Mục đích thực hiện cơ chế quản lý vốn tập trung:

Quản lý tập trung nguồn vốn của toàn hệ thống đáp ứng cho các mục tiêu sử dụng vốn phù hợp với định hướng và kế hoạch kinh doanh, đảm bảo các giới hạn an toàn theo quy định, kiểm soát rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất trong hoạt động ngân hàng;

Quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn hiệu quả, đạt được các chỉ tiêu kế hoạch tài chính của ngân hàng;

Phát huy được lợi thế kinh doanh của các chi nhánh trên các địa bàn khác nhau;

Phân bổ chi phí, thu nhập vốn một cách khách quan, công bằng để đánh giá

đúng mức độ đóng góp của các đơn vị vào thu nhập chung của toàn hệ thống.

1.2.2.4 Nội dung cơ bản của cơ chế quản lý vốn tập trung:

a. Thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh:

Trước mắt, thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh vẫn là một phần không thể tách rời của việc thực hiện cơ chế quản lý vốn tập trung. Các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu của toàn hệ thống bao gồm:

- Các chỉ tiêu tăng trưởng: tổng tài sản, dư nợ tín dụng, tự huy động, thị phần huy động, thị phần tín dụng,..

- Các chỉ tiêu hiệu quả: chi phí/doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận,…

- Các chỉ tiêu chất lượng: nợ quá hạn, chi phí dự phòng, vốn của ngân hàng,… Các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu giao cho chi nhánh bao gồm: nguồn vốn huy

động, quy mô tín dụng (tối đa), NIM (tối thiểu),… với tiến độ thực hiện cụ thể để đảm bảo sự cân đối trong toàn hệ thống.

Trong các nội dung trên, phần chỉ tiêu về chi phí đã được loại bỏ khi áp dụng cơ chế FTP.

b. Tuân thủ các chỉ tiêu hạn mức:

Giới hạn quy mô tín dụng:

Quy mô tín dụng tối đa của hệ thống được quản lý theo số tuyệt đối và được

phân bổ về các đơn vị kinh doanh căn cứ trên tổng hạn mức tín dụng và danh mục

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí