Basel 2 nhấn mạnh tính kỷ luật của thị trường trong việc đảm bảo các quy định về vốn và những nỗ lực giám sát nhằm thúc đẩy sự an toàn và lành mạnh trong các ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thỏa đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel 2 xây dựng một tập hợp các yêu cầu về công bố cho phép người tham gia thị trường đánh giá những thông tin trọng yếu về quy mô áp dụng, vốn, mức độ rủi ro, quá trình đánh giá rủi ro. Việc công bố thông tin dựa trên một khuôn khổ chung là một phương tiện hữu hiệu trong việc cho thị trường thấy về mức độ thiệt hại của ngân hàng đối với những rủi ro này, tạo ra một khuôn khổ công bố thông tin nhất quán và dễ hiểu nhằm nâng cao khả năng so sánh được. Việc công bố thông tin phụ thuộc vào “tính trọng yếu”. Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ lỡ thông tin này hoặc công bố sai thông tin này có thể thay đổi hoặc ảnh hưởng đến việc đánh giá hoặc ra quyết định của người sử dụng dựa trên thông tin đó. Do đó, các ngân hàng cần có một chính sách công bố thông tin do hội đồng quản trị thông qua, đưa ra cách tiếp cận của ngân hàng trong việc quyết định công bố thông tin nào và kiểm soát nội bộ đối với các quá trình công bố thông tin. Ngoài ra, các ngân hàng cần thực thi quá trình đánh giá tính phù hợp của những thông tin họ công bố, bao gồm tính giá trị và tần suất của chúng.
Như vậy, cùng với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Để góp phần ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng, Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF - đã công bố “Bộ chỉ số lành mạnh tài chính - FSIs” với 40 chỉ số, trong đó có 25 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực ngân hàng (12 chỉ số cốt lõi và 13 chỉ số khuyến khích). Đây chính là cơ sở để đánh giá hiệu quả quản lý của NHTW đối với các NHTM nói chung. Về lĩnh vực quản lý vốn chủ sở hữu, trong bộ
chỉ số FSIs có 2 chỉ số cốt lõi là:
Tỷ lệ vốn pháp định/điều lệ so với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro (Regulatory capital to risk-weighed assets)
Đây là chỉ số đo lường khả năng bù đắp rủi ro của NHTM từ vốn pháp định, các quỹ dự trữ, các quỹ dự phòng và các khoản vay có kỳ hạn dài trước các tổn thất do các loại Tài sản Có rủi ro gây ra. Chỉ số này còn cho biết khả năng đối phó của NHTM trước các cú sốc của môi trường vĩ mô.
Tỷ lệ vốn cấp 1 so với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro (Regulatory tier 1 capital to risk weighed assets)
Chỉ số này cho biết sự an toàn vốn của NHTM dựa trên định nghĩa về vốn của Basel. Các bộ luật và các văn bản dưới luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng
Bên cạnh các thông lệ quốc tế và các quy định của các tổ chức tài chính quốc tế, việc quản lý vốn chủ sở hữu của NHTW đối với các NHTM còn chịu sự chi phối của các bộ luật và các văn bản dưới luật điều chỉnh về hoạt động của ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng. Tùy vào hệ thống luật pháp cũng như tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng của từng quốc gia, các bộ luật và văn bản dưới luật này được ban hành, áp dụng cho từng đối tượng cụ thể, có tác động tới việc quản lý của NHTW về vốn chủ sở hữu của các NHTM. Tại một số quốc gia, NHTW thường áp dụng khuyến nghị của Basel trong quản lý vốn (quản lý an toàn vốn) của NHTM để ban hành các bộ luật và văn bản dưới luật điều chỉnh. Việc này thể hiện qua các văn bản pháp quy mà NHTW soạn thảo và ban hành, như quyết định, thông tư, quy chế.
1.2.2.3. Nội dung quản lý của ngân hàng trung ương đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại
Dựa trên các cơ sở pháp lý mang tính phổ biến, các NHTW thể hiện cụ thể các quy định này qua các văn bản chuyên ngành để quản lý vốn chủ sở hữu của các NHTM nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn của hệ thống. Tùy theo tình hình mà NHTW đưa ra những quy định an toàn liên quan tới vốn chủ sở hữu.
Quy định các tỷ lệ an toàn liên quan tới vốn chủ sở hữu[18]
Vốn pháp định
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải tuân thủ mức vốn pháp định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, không phải hoàn trả, hình thành nên thiết bị, nhà cửa ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực sinh lời của chủ ngân hàng và sự phát triển của thị trường tài chính. Nếu ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách nhà nước cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông sáng lập đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên góp vốn; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Tùy vào hệ thống ngân hàng của từng nước và trong từng thời kỳ, ngân hàng trung ương quy định mức vốn pháp định đối với ngân hàng thương mại. Nếu ngân hàng thương mại không đảm bảo yêu cầu về vốn pháp định sẽ bị liệt vào danh sách theo dõi, kiểm soát chặt chẽ, trong nhiều trường hợp ngân hàng trung ương sẽ tiến hành mua bán hoặc sáp nhập các ngân hàng này với nhau để đảm bảo đủ yêu cầu về vốn pháp định.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Vốn cấp 1 + vốn cấp 2 – các khoản giảm trừ khỏi vốn
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
ngân hàng
= Tổng tài sản nội và ngoại bảng x hệ số rủi ro + Vốn yêu cầu tối thiểu đối với rủi ro hoạt động+ Vốn yêu cầu tối
thiểu đối với rủi ro thị trường
≥ 8%
Theo yêu cầu của Basel 2, CAR ≥8% (hoặc 9% theo Basel 3)
Theo chỉ tiêu này, tài sản của ngân hàng được phân loại theo mức độ rủi ro (khả năng tổn thất) dựa trên kinh nghiệm nhiều năm, có tính đến các nhân tố mới. Thông qua các hệ số chuyển đổi tính cho từng loại tài sản rủi ro, các ngân hàng tính được tổng tài sản đã chuyển đổi. Sau đó một tỷ lệ giữa tổng tài sản rủi ro đã chuyển
đổi và vốn ngân hàng sẽ được các nhà chức trách tiền tệ tìm kiếm sao cho thoả mãn nhu cầu an toàn.
Quan niệm về tài sản chuyển đổi rủi ro được mở rộng sang tài sản ngoại bảng khi thị trường phái sinh phát triển, đồng thời không chỉ vốn chủ sở hữu mà cả nợ - vốn cấp 2 - cũng được coi là có khả năng đảm bảo an toàn. CAR đang được các nhà quản lý ngân hàng thay đổi các bộ phận cấu thành cũng như giới hạn nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn trong môi trường kinh doanh ngân hàng có nhiều thay đổi.
Bảng 1.3: Ví dụ một ngân hàng có quy mô và cấu trúc tài sản như sau:
Qui mô tài sản | Tỷ lệ chuyển đổi (%) | Qui mô tài sản có rủi ro | |
1. Tiền mặt và tiền gửi tại NHNN | 100 | 0 | 0 |
2. Cho vay có đảm bảo | 400 | 50 | 200 |
3. Cho vay không có đảm bảo | 300 | 100 | 300 |
Tổng tài sản nội bảng | 800 | 500 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ngân Hàng Được Lựa Chọn (Trừ Agribank, Eximbank) Thuộc Nhóm Thí Điểm Triển Khai Quản Trị Rủi Ro Theo Basel 2 Của Nhnn.
- Vốn Chủ Sở Hữu Của Ngân Hàng Thương Mại Khái Niệm
- Quản Lý Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Công Cụ Và Phương Pháp Quản Lý Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Quản Lý Của Một Số Ngân Hàng Trung Ương Các Nước Khu Vực Và Thế Giới Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Của Cơ Quan Quản Lý Tiền Tệ Singapore
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
Các nhà chức trách ngân hàng xây dựng tỷ lệ chuyển đổi đối với các loại tài sản khác nhau. Quy mô tài sản rủi ro được tính bằng cách nhân quy mô tài sản (số dư) với tỷ lệ chuyển đổi (theo ví dụ là 500). Sau đó quy định tỷ lệ hợp lý giữa vốn ngân hàng và vốn chủ sở hữu với quy mô tài sản rủi ro (tiêu chuẩn dựa trên rủi ro: Risk - based Capital Standards).
Nếu yêu cầu Vốn chủ sở hữu /Tài sản có rủi ro là 5% thì Vốn chủ sở hữu cần thiết tối thiểu là 25.
Nếu yêu cầu Vốn chủ sở hữu /Tài sản có rủi ro là 8% thì Vốn chủ sở hữu ( cấp 1 + cấp 2 – các khoản giảm trừ) tối thiểu là 40.
Đây là chỉ tiêu xác định vốn cần thiết dựa trên căn cứ mức độ rủi ro của tài sản nội và ngoại bảng. Vốn chủ sở hữu được tính toán trong mối liên hệ với mức độ rủi ro của các loại tài sản. Một ngân hàng có thể tăng quy mô tài sản (bằng cách tăng các khoản nợ) mà không cần tăng vốn chủ sở hữu nếu thay đổi cấu trúc danh
mục đầu tư. Với quy mô đầu tư như nhau song ngân hàng nào có nhiều tài sản chuyển đổi theo hệ số rủi ro hơn sẽ cần có vốn chủ sở hữu nhiều hơn.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tiền gửi
Nhiều quan điểm cho rằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tiền gửi càng cao ngân hàng càng an toàn. Do quy mô tiền gửi phản ánh trách nhiệm chi trả bất kì lúc nào của ngân hàng, nên nếu tiền gửi càng lớn, yêu cầu chi trả càng cao khi ngân hàng bị phá sản. Các cơ quan quản lý ngân hàng ở nhiều nước đã quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu
/tiền gửi tối đa, và coi đó như là một tiêu thức xác định an toàn trong thanh toán. Cách xác định này đơn giản, dễ áp dụng và kiểm soát. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tiền gửi thường nhỏ hơn 1. Tuy nhiên, các vụ phá sản ngân hàng đã chứng minh rằng, quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ ít liên quan đến các thua lỗ trong kinh doanh. Và ngay các ngân hàng có tỷ lệ này cao cũng không có khả năng thanh toán các khoản nợ của người gửi tiền khi lâm vào tình trạng phá sản. Khi cơ quan bảo hiểm tiền gửi hoạt động có hiệu quả thì người gửi tiền càng ít quan tâm tới vốn chủ sở hữu so với mức lãi suất và tính thuận tiện trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Độ an toàn của các ngân hàng được quyết định bởi tính an toàn của danh mục tài sản, trong đó chủ yếu là tín dụng và đầu tư vào chứng khoán.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản = Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phần trăm giảm trong tổng tài sản có thể được bù đắp bởi vốn chủ sở hữu, bởi vì toàn bộ các tài sản đều có một khả năng tổn thất nhất định và bất cứ tổn thất hay sụt giảm nào về giá trị đều dẫn đến giảm khoản mục dự phòng hay vốn chủ sở hữu.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản rủi ro
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản rủi ro = Vốn chủ sở hữu / (Tổng tài sản – Tiền – Chứng khoán chính phủ - Chứng khoán được phát hành bởi các cơ quan thuộc Chính phủ).
Do ngân quỹ và trái phiếu chính phủ có rủi ro gần bằng không, tỷ lệ trên cho thấy khả năng bù đắp tổn thất bằng vốn chủ sở hữu cho các khoản cho vay và đầu tư rủi ro (cổ phiếu, trái phiếu công ty).
Quy định về quản lý rủi ro:
Về hệ số rủi ro:
Xác định hệ số rủi ro là xác định giá trị tổn thất của mỗi loại tài sản sẽ phải bù đắp bằng vốn ngân hàng khi ngân hàng bị phá sản. Dựa trên cách tính hệ số rủi ro của Basel 2, ngân hàng trung ương quy định cách tính hệ số rủi ro của từng loại rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường với các mức hệ số rủi ro (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng [1].
- Các tài sản có hệ số rủi ro bằng 0%: Tiền mặt; Vàng; Dư nợ cho vay theo quốc gia và các NHTW có xếp hạng tín dụng từ AAA đến AA- hoặc có thang điểm 1 theo ECA; Dư nợ cho vay Ngân hàng thanh toán quốc tế BIS, Quỹ tiền tệ quốc tế, NHTW Châu Âu;
- Các tài sản có hệ số rủi ro bằng 20%: Dự nợ cho vay với các tổ chức tín dụng, các công ty có xếp hạng tín dụng từ AAA đến AA-; Kim loại quý (trừ vàng), đá quý; Dư nợ cho vay theo quốc gia và các NHTW có xếp hạng tín dụng từ A+ đến A- hoặc có thang điểm 2 theo ECA.
- Các tài sản có hệ số rủi ro bằng 50%: Dư nợ cho vay theo quốc gia và các NHTW có xếp hạng tín dụng từ BBB+ đến BBB- hoặc có thang điểm 3 theo ECA; Dư nợ cho vay với các tổ chức tín dụng, các công ty có xếp hạng tín dụng từ A+ đến A-; Các khoản dư nợ cho vay được đảm bảo bằng bất động sản dùng để ở.
- Các tài sản có hệ số rủi ro bằng 100%: Dư nợ cho vay theo quốc gia và các NHTW có xếp hạng tín dụng từ BB+ đến B- và không xếp hạng hoặc có thang điểm 4 đến 6 theo ECA; Dự nợ cho vay với các tổ chức tín dụng, các công ty có xếp hạng tín dụng từ BBB+ đến BBB- hoặc không xếp hạng; Các khoản vay được đảm bảo bằng bất động sản thương mại; Nợ quá hạn có dự phòng riêng không thấp hơn 20% tổng dư nợ của khoản vay.
- Các tài sản có hệ số rủi ro là 150% hoặc cao hơn: Các dư nợ cho vay các quốc gia, các cơ quan công quyền, các ngân hàng, và các công ty chứng khoán được xếp hạng dưới B-; Các dư nợ cho vay các công ty được xếp hạng dưới BB-; Nợ quá hạn khi dự phòng riêng thấp hơn 20% tổng dư nợ của khoản vay; Các khoản mục
chứng khoán hoá (securitisation tranches) được xếp hạng từ BB+ đến BB- sẽ được xác định hệ số rủi ro là 350%.
Tùy vào mỗi quốc gia, ngân hàng trung ương xây dựng khung quy định về hệ số rủi ro với từng khoản mục tài sản khác nhau. Nhưng việc xác định hệ số rủi ro vẫn tuân theo các quy định trong Basel 2.
Về xử lý rủi ro:
Với quan điểm quản lý vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại để đảm bảo mục tiêu an toàn vốn, ngân hàng trung ương quan tâm tới việc xử lý rủi ro thông qua quy định về trích lập dự phòng rủi ro. Điều này giúp các ngân hàng có nguồn bù đắp tổn thất trong tương lai mà không làm ảnh hưởng tới vốn của ngân hàng. Ngân hàng trung ương quy định các khoản nợ của ngân hàng được chia thành các nhóm theo mức độ rủi ro và khả năng thu hồi vốn [18]:
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp, thu hồi vốn đúng với thời hạn vay.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, việc thu hồi các khoản vay không đúng thời hạn vay nhưng có tài sản đảm bảo.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn, có thể dẫn đến mất vốn.
Tại nhiều nước trên thế giới, Ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát chỉ đưa ra những nguyên tắc chung, quy định mức sàn trong phân loại nợ và trích lập dự phòng. Từ đó, các ngân hàng cụ thể hoá các nguyên tắc để xây dựng chính sách riêng cho mình phù hợp với quy mô và tính chất hoạt động của từng ngân hàng. Tùy vào hệ thống ngân hàng mỗi quốc gia, ngân hàng trung ương đưa ra quy định phân loại nợ và mức trích lập dự phòng cho từng nhóm. Như ở Anh, Cơ quan giám sát (FSA) không đề ra chính sách chung này mà từng ngân hàng quy định chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kế toán (IAS 39) với mục tiêu là phân loại nợ và trích lập dự phòng phản ánh đúng chất lượng tín dụng và khả năng tổn thất mà ngân hàng gặp phải trên cơ sở phân tích tình trạng lưu chuyển tiền mặt của khách hàng.
Quy định công khai, minh bạch về thông tin:
Ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng phải xây dựng kế hoạch thực hiện công khai tài chính bao gồm cả chu kỳ công bố, cơ cấu vốn, cơ cấu rủi ro và đánh giá rủi ro, hiện trạng vốn phù hợp. Điều đó sẽ cho phép các bên tham gia thị trường có thể thẩm định mức vốn an toàn và có sự so sánh. Đối với từng loại nội dung thông tin cần công khai, ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng phải nêu rõ như sau [1]:
Bảng 1.4: Thông tin về cơ cấu vốn
(a) | Thông tin tóm lược về các khoản mục và điều kiện của các đặc điểm chính về các công cụ vốn, đặc biệt trong trường hợp các công cụ vốn sáng tạo, tổ hợp, hay lai tạo. | |
Công bố số lượng | (a) | Lượng vốn cấp 1, với công bố tách rời: Cổ phiếu phổ thông. Dự trữ Lãi suất nhỏ trong vốn cổ phần của chi nhánh Công cụ sáng tạo Các công cụ vốn khác Vốn thặng dư từ các công ty bảo hiểm Uy tín và giá trị khác được giảm trừ từ cấp 1. |
(c) | Tổng lượng vốn Cấp 2 và 3. | |
(d) | Giảm trừ từ cấp 1 và cấp 2 | |
(e) | Tổng vốn hợp lệ |
Nguồn: Hiệp ước Basel 2
Các ngân hàng phải có chính sách công khai rõ ràng và một quy trình để đánh giá sự chính xác trong báo cáo của họ. Đối với từng loại rủi ro riêng biệt, các ngân hàng phải mô tả mục tiêu và các chính sách quản trị rủi ro của họ.
Bảng 1.5: Thông tin về rủi ro