Thương Giang 滄 江 Như Thương Giang 蒼 江: Sông Xanh.


THÁNG MÙA ĐÔNG, TỪ QUẢNG ĐÔNG ĐI ĐƯỜNG THUỴ SANG TỈNH QUẢNG TÂY HỘI VỚI ĐOÀN SỨ THỈNH PHONG MƯỢN ĐƯỜNG LÊN KINH, GIỮA ĐƯỜNG CÙNG HAI PHÓ SỨ NGÔ NHÂN TĨNH, HUỲNH NGỌC UẨN LÀM BA MƯƠI BÀI THEO VẬN LẠP ÔNG.

Vì nước Nam dốc lòng thành, đến Quảng Đông,

Từ đất phía tây lên bắc cung yết kiến.

Đường xa trải nhiều sương tuyết, năm sắp hết, Núi non hút mắt, đường đi chẳng cùng.

Gặp khi thoả chí, phải biết ra làm quan và biết lui về nghỉ,

Đừng thêm chân rắn, lấy cái vụng mà cầu cái khéo.

Dẫu vượt ra khỏi ngoài vòng tạo hoá,

Vẫn còn thích nếp tiến thoái theo lễ nghi. (?)

Dịch thơ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Vì nước, dốc lòng đến Quảng Đông, Trời tây xa viếng Bắc thần cung.

Tuyết sương dầu dãi, năm đà muộn, Sông núi lô nhô, lối chẳng cùng.

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 36

Đắc chí biết khi, hành với xử,

Chớ thêm chân rắn, vụng cầu công. Cũi lồng tạo hoá dù ra khỏi,

Vẫn mến tiến lùi theo lễ phong.


147/2.

廣東秋又廣西冬一葉扁舟路幾重愛日曉憑迎燠榻穿窗寒送定更鐘遙聞桂省亭攔馬纔見梧州石繫龍到處無窮新點綴山川如爲客爲容

Quảng Đông thu hựu Quảng Tây đông, Nhất diệp biên chu lộ kỵ trùng.

Ái nhật hiểu bằng nghênh úc tháp, Xuyên song hàn tống định canh chung. Dao văn Quế tỉnh đình lan mã,

Tài kiến Ngô Châu thạch hệ long.1 Đáo xứ vô cùng tân điểm xuyết, Sơn xuyên như vị khách vi dung.

Dịch nghĩa:

Mùa thu ở đất Quảng Đông, mùa đông đã sang Quảng Tây,


1 Ngô Châu: Theo Trung Quốc cổ kim địa danh đại từ điển, thời Hán đặt làm quận Thương Ngô, thời Đường đặt là Ngô Châu, thời Tống gọi là quận Thương Ngô, Ngô Châu, thời Nguyên đổi thành lộ Ngô Châu, thời Minh lại gọi là phủ Ngô Châu, thời Thanh giữ nguyên như thời Minh, nay thuộc huyện Thương Ngô tỉnh Quảng Tây.

Một chiếc thuyền nhỏ trên đường xa vời. Thích nắng sáng mai, mang giường ra sưởi, Hơi lạnh lọt vào cửa thuyền mang theo tiếng chuông điểm canh.

Xa nghe tỉnh Quế Lâm có đình dừng ngựa, Giờ mới thấy ở Ngô Châu có đá cột rồng. Khắp nơi cảnh vật tô điểm vô cùng mới mẻ, Sông núi như vì khách mà điểm trang.

Dịch thơ:

Quảng Đông thu, đến Quảng Tây đông, Một chiếc thuyền con, lộ mấy trùng.

Sớm kê giường sưởi, thường ưa nắng, Chuông điểm canh lồng, giá thoảng song. Xa nghe Quế tỉnh, đình dừng ngựa,

Mới thấy Ngô Châu, đá buộc rồng. Khắp chốn vô cùng thêm mới mẻ, Tô hồng vì khách ấy non sông.


148/3.

迢迢竻竹泛輕艭牽纜撐篙上逆瀧謙性半資觀水養熱心多爲飲冰降戍樓遲滯籌三漏旅夜支持酒一缸嗚咽龍吟何處笛滿船霜月臥滄江

Điều điều Lực Trúc2 phiếm khinh sang,

Khiên lãm sanh cao thướng nghịch lang. Khiêm tính bán tư quan thuỵ dưỡng, Nhiệt tâm đa vị ẩm băng hàng.

Thú lâu trì trệ trù tam lậu, Lữ dạ tri chì tửu nhất cang. Ô yết long ngâm3 hà xứ địch,

Mãn thuyền sương nguyệt ngoạ thương giang4.

Dịch nghĩa:

Gò Lực Trúc xa xa, dạo thuyền nhẹ,

Kéo dây neo, chống sào ngược dòng nước xiết. Tính khiêm nhường, nửa nhờ xem dòng nước mà di dưỡng,

Lòng nóng nảy, phần nhiều uống băng để trừ đi.


2 Nguyên chú: than danh = tên bãi biển. Theo Trung Quốc cổ kim địa danh đại từ điển, gò Lực Trúc, nằm ở bờ bắc sông Cẩm thuỵ, cách 35 dặm về phía tây nam huyện Tân Hưng, Quảng Đông.

3 Long ngâm: Theo Từ nguyên, có ba nghĩa. Một, dẫn sách Linh quái lục rằng, Phòng Quản tu học ở trong hang núi Chung Nam,

chợt nghe có tiếng như vật chạm vào đồ đồng kêu o o, mới hỏi, bậc phụ lão nói đó là tiếng rồng ngâm, quả nhiên lát sau mưa đổ. Hai, tên một khúc đàn. Trịnh Thuật Tổ truyện trong Bắc Tề thư chép, Thuật Tổ giỏi đàn, tự tạo ra mười khúc long ngâm. Ba, cũng gọi là địch (sáo). Ở đây chúng tôi chọn dùng nghĩa thứ hai.

4 Thương giang 滄 江 như thương giang 蒼 江: sông xanh.


Trì trệ nơi lầu lính thú, ba canh đếm giọt đồng hồ,

Đêm nơi đất khách, có bầu rượu cầm chừng. Tiếng sáo đâu đây vang khúc long ngâm dào dạt,

Đầy thuyền sương trăng, ta nằm trên sông xanh.

Dịch thơ:

Xa gò Lực Trúc cánh buồm căng, Dây kéo chèo bơi nước ngược đằng. Khiêm tính dưỡng nhờ xem tính nước Nhiệt tâm hoà bởi uống tâm băng.

Ba canh trì trệ nơi lầu lính, Một hũ nhâm nhi giữa tối ngần.

Khúc sáo long ngâm dào dạt trỗi,

Đầy khoang trăng toả bến sương giăng.


149/4.

使舫蒼梧晚棹移怱怱纔過伏波祠識真可想遨遊蹟示用空懷矍鑠姿銅柱未逾南北界珠犀已惑聖明時忘機孟浪群鷗鴨放逐征帆弄水湄

Sứ phưởng Thương Ngô vãn trạo di,1 Thông thông tài quá Phục Ba từ.2

Thức chân khả tưởng ngao du tích, Thị dụng không hoài quắc thước tư. Đồng trụ vị du nam bắc giới,

Châu tê dĩ hoặc thánh minh thời. Vong cơ mạnh lãng quần âu áp,3 Phóng trục chinh phàm lộng thuỵ my. Dịch nghĩa:

Chiều tà, thuyền sứ đưa chèo trên sông Thương Ngô,

Thuyền lướt nhẹ nhàng qua miếu thờ Phục Ba. Biết rõ sự thật có thể nghĩ đến dấu vết ngao du, Muốn tỏ ích dụng nên vẫn mang dáng quắc thước.


1 Thương Ngô: đồng Thương Ngô, tương truyền, vua Thuấn đi tuần phương nam, mất và táng tại đồng Thương Ngô. Thương Ngô cũng là tên một ngọn núi, còn gọi là Cửu Nghi, nay ở phía đông nam huyện Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam.

2 Phục Ba: Phục Ba tướng quân Mã Viện, tướng nhà Hán, lập nhiều chiến công, từng sang nước ta đàn áp cuộc khởi nghĩa hai

bà Trưng.

3 Câu này xuất từ điển “âu lộ vong cơ”, sách Liệt Tử chép: Ở vùng biển có người thích chim âu, mỗi sáng ra bãi biển chơi với

chim, chim đến đậu cả trăm con mà không bắt. Cha người ấy bảo: “Ta nghe chim âu theo chơi với con, con hãy bắt cho ta chơi”. Sáng hôm sau người ấy ra biển, chim bay liệng mà không đáp xuống”. Sau điển này được dùng với nghĩa làm bạn với con âu con cò mà quên việc đời, chỉ người ở ẩn. (dẫn theo Hoài Anh, Gia Định tam gia thi, NXB. Tổng hợp Đồng Nai, 2005, tr. 166).

Cột đồng chưa vượt khỏi ranh giới nam bắc, Châu ngọc và sừng tê đã lừa dối thánh minh. Thà quên đi sự đời, chơi đùa cùng con âu con cò,

Giong cánh buồm xa giỡn nước nơi bến sông.

Dịch thơ:

Thương Ngô thuyền sứ lướt chiều tà, Vun vút vèo qua miếu Phục Ba.

Tỏ ích hoài mong thân quắc thước, Biết rành còn muốn vết chơi xa.

Trụ đồng chưa vượt ranh nam bắc, Tê ngọc đã lừa thánh chúa a!

Bỏ mặc sự đời, âu kết bạn, Cánh buồm tít tắp giữa sông .


150/5.

日 午 山 前 捲 翠 幃半 山 霜 葉 半 煙 霏東 城 畫 鷁 安 流 返南 徼 溟 鴻 故 國 飛地 迥 水 旋 穿 嶺 帶歲 寒 雲 送 奉 天 衣星 槎 乍 觸 黃 灘 石疑 近 雙 星 夜 渡 磯

Nhật ngọ sơn tiền quyển thuý vi, Bán sơn sương diệp bán yên phi. Đông thành hoạ nghịch an lưu phản, Nam kiếu minh hồng cố quốc phi.

Địa quýnh thuỵ tuyền xuyên lĩnh đới, Tuế hàn vân tống phụng thiên y.

Tinh tra sạ xúc hoàng than thạch, Nghi cận song tinh4 dạ độ ki.

Dịch nghĩa:

Mặt trời đứng ngọ trước núi, vén màn xanh, Nửa núi sương mờ, nửa núi khói phất phơ. Thuyền hoa Đông thành nhẹ nhàng trở về, Cánh chim hồng bể Nam bay về quê hương. Đất trồi lên, nước sông xoáy xuyên qua dải núi,

Năm tàn lạnh lẽo, mây làm chiếc áo trời. Thuyền bè chợt chạm phải đá bãi vàng,

Ngỡ gần bãi đá mà Ngưu lang, Chức nữ đi sang trong đêm.

Dịch thơ:

Vầng dương trước núi vén màn mây, Nửa núi sương giăng, nửa khói dày. Thuyền xứ Đông thành về bến lướt, Cánh hồng Nam hải lượn quê ai.

Sông dài đất cuốn, xuyên non biếc, Khói lạnh năm tàn, vá áo mây.

Bất chợt bè sao chạm bãi đá,


4 Song tinh: hai vì sao. Theo Từ nguyên tức là sao Ngưu lang và sao Chức nữ.


Ngỡ bờ Ngưu Chức buổi sum vầy.


151/6.

天 寒 三 水 凍 無 魚異 域 難 憑 遠 使 書老 蚌 含 珠 和 霧 隱童 牛 負 耒 破 雲 鋤消 磨 歲 月 山 頭 禿閱 歷 風 塵 石 髮 疏寄 問 請 封 陪 价 者龍 輿 北 幸 近 何 如

Thiên hàn Tam Thuỵ1 đống vô ngư,2 Dị vực nan bằng viễn sứ thư.

Lão bạng hàm châu hoà vụ ẩn, Đồng ngưu phụ lỗi phá vân sừ. Tiêu ma tuế nguyệt sơn đầu ngỗi,

Duyệt lịch phong trần thạch phát sơ. Ký vấn thỉnh phong bồi giới giả, Long dư bắc hạnh cận hà như?

Dịch nghĩa:

Trời đông ở Tam Thuỵ, rét đến không có cá, Nơi xứ lạ khó nhờ cậy tin thư xa.

Nghêu sò ngậm ngọc lẩn trong sương móc, Trẻ con cỡi trâu vác cày bừa nát cả mây trời. Năm tháng mài mòn cả đầu núi,

Trải bao gió bụi đầu tóc đá thưa. Nhắn hỏi đoàn sứ thỉnh phong, Xe rồng lên bắc dạo này thế nào? Dịch thơ:

Trời đông Tam Thuỷ, cá khôn bơi, Đất lạ khó nhờ thư đến nơi.

Ngậm ngọc, trai sò len móc ẩm, Vác cày, mục tử xới mây trời.

Tháng ngày dầu dãi, đầu non trụi, Gió bụi xông pha, tóc đá rời.

Ướm hỏi thỉnh phong đoàn sứ giả, Xe rồng lên bắc đã ra khơi?


152/7.

牽 舟 人 上 半 山 途舟 去 山 留 古 道 孤地 接 楚 城 榔 不 長天 高 秦 嶺 雪 難 逾蔑 才 慚 愧 官 司 會專 對 兢 惶 我 鄙 儒愛 禮 慶 今 尋 遠 聖來 庭 無 用 貢 珊 瑚

Khiên chu nhân thướng bán sơn đồ, Chu khứ sơn lưu Cổ Đạo3 cô.

Địa tiếp Sở thành lang bất trưởng, Thiên cao Tần lĩnh tuyết nan du. Miệt tài tàm quý quan ti hội, Chuyên đối4 cắng hoàng ngã bỉ nho. Ái lễ khánh kim tầm viễn thánh,

Lai đình vô dụng cống san hô.

Dịch nghĩa:

Neo thuyền, người đi lên con đường giữa núi, Thuyền đi, núi ở lại, Cổ Đạo đứng một mình. Đất liền thành Sở, cây cau tưởng khó lớn, Trời cao núi Tần, tuyết khó tan.

Tài hèn thấy thẹn cũng được mang chức quan, Ứng đối nơm nớp lo sợ vì là nhà nho hèn.

Mến lễ nghi, mừng ngày nay được ở nơi thánh triều,

Đến chầu chẳng cần cống san hô.

Dịch thơ:

Neo thuyền rẽ lối giữa non lơ, Núi ở thuyền đi, Cổ Đạo trơ. Đất sát Sở thành, cau khó mọc,

Trời cao Tần lĩnh, tuyết khôn mờ. Tài hèn hổ thẹn mang quan tước, Ứng đối ngại ngùng lão hủ nho. Chuộng lễ mừng nay tìm viễn thánh, Vào triều khỏi phải cống san hô.


153/8.

封 川 路 入 瘴 江 西深 洞 編 氓 雜 漢 黎耘 跡 未 青 蘿 蔔 圃燒 痕 猶 黑 荔 枝 隄居 人 度 日 終 嫌 短行 客 占 星 不 覺 低鼓 櫂 撥 開 千 里 霧淵 驚 眠 鱷 樹 猿 啼

Phong Xuyên lộ nhập chướng giang tê (tây), 5

Thâm động biên manh tạp Hán lê. Vân tích vị thanh la bặc phố, Thiêu ngân do hắc lệ chi đê.

Cư nhân độ nhật chung hiềm đoản, Hành khách chiêm tinh bất giác đê. Cổ trạo bát khai thiên lý vụ,

Uyên kinh miên ngạc thụ viên đề.

Dịch nghĩa:

Đường vào Phong Xuyên theo mé tây con sông thẳm,


1 Nguyên chú: huyện danh = tên huyện. Theo Trung Quốc cổ kim địa danh đại từ điển, huyện Tam Thuỵ được thiết lập từ nhà Hán, huyện thuộc phủ Quảng Đông, Quảng Châu.

2 Ngư: cá. Ở đây chỉ thư từ, lấy ý từ một câu trong cổ thi “Hữu bằng viễn phương lai, Di ngã song lý ngư” (có bạn từ xa đến,

tặng ta một đôi cá chép)

3 Nguyên chú: địa danh.

4 Luận ngữ: “sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối” (đi sứ bốn phương, không biết lấy gì mà đối đáp).

5 Phong Xuyên: là vùng đất huyện Quảng Tín đời Hán, đến đời Tấn là huyện Phong Hưng, đời Tuỳ đổi lại thành Phong Xuyên.

Đời Thanh thuộc phủ Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông.


Trong động sâu, người dân không nghề nghiệp gì sống chung với dân Hán.

Vườn cải còn dấu cày chưa xanh màu, Bãi lệ chi (vải) vết cháy vẫn còn đen.

Người dân cho ta ở thì tính ngày vẫn còn e ít, Khách đi nhìn sao bất giác thấy sà thấp (ngày tháng qua nhanh).

Quẫy chèo xua sạch mây mù muôn dặm,

Làm kinh giấc ngủ kình ngạc ở vực sâu, vượn trên cây hú rộn.

Dịch thơ:

Phong Xuyên men lối bến sông ngầu, Động hút bao người sống lẫn nhau. Vải đỏ, ngấn tro còn cháy thẳm,

Cải xanh, vết cuốc chửa lên màu. Cư dân tính buổi còn hiềm ít, Hành khách nhìn sao đã sát đầu.

Quẫy nước chèo khua sương vạn dặm, Vượn ngàn hú động ngạc khe sâu.


154/9.

甘 村 冬 景 好 安 排忙 裏 行 人 望 亦 佳雲 樹 晴 分 天 有 路煙 波 暮 起 水 無 涯窖 炊 粗 糲 重 陪 菜門 避 諠 囂 半 掩 柴醉 臥 石 牀 歌 帝 力邱 隅 黃 鳥 和 喈 喈

Cam thôn đông cảnh hảo an bài, 1

Tránh ồn ào nên cửa gỗ khép hờ.

Say nằm trên giường đá, hát bài Đế lực, Bên gò chim vàng anh hót líu lo.

Dịch thơ:

Làng Cam khéo vẽ cảnh mùa đông, Vội vã hành nhân, đẹp lạ lùng.

Mây trắng cây xanh, trời rẽ lối,

Khói chiều sóng toả, nước mênh mông. Cơm thô, thổi bếp thêm rau món,

Cửa củi, lánh trần khép nửa không. Phản đá say nằm, ca Đế lực,

Bên đồi chim hót tiếng thanh trong.


155/10.

腰 間 長 劍 倚 天 開萬 壑 陰 陰 蟄 凍 雷菊 徑 凋 傷 包 老 圃松 風 蕭 颯 粵 王 臺酒 躋 稱 聖 斯 無 量詩 到 驚 神 即 脫 胎多 少 路 前 冠 蓋 客洛 陽 曾 是 看 花 回

Yêu gian trường kiếm ỵ thiên khai, Vạn hác âm âm chập đống lôi.

Cúc kính điêu thương Bao lão phố,3 Tùng phong tiêu táp Việt vương đài.4 Tửu tê xưng thánh tư vô lượng,

Thi đáo kinh thần tức thoát thai.5 Đa thiểu lộ tiền quan cái khách,6 Lạc Dương tằng thị khán hoa hồi.7

Mang lý hành nhân vọng diệc giai.

Vân thụ tình phân thiên hữu lộ, Yên ba mộ khởi thuỵ vô nhai. Diếu xuy thô lệ trùng bồi thái, Môn tị huyên hiêu bán yểm sài. Tuý ngoạ thạch sàng ca Đế lực,2

Khâu ngung hoàng điểu hoạ giai giai.

Dịch nghĩa:

Cảnh đông làng Cam khéo sắp bày,

Người đi đường trong cơn vội vã mà trông cũng đẹp.

Mây trắng cây xanh quang tạnh rõ ràng, trời như có lối,

Khói sóng chiều dâng, nước không bến bờ. Bếp nhỏ thổi cơm thô, được thêm món rau,


1 Nguyên chú: địa danh. Theo Trung Quốc cổ kim địa danh đại từ điển có mục Cam: vùng tây nam huyện Lạc Dương tỉnh Hà Nam. Mục Cam Trúc khư: phía tây nam huyện Thuận Đức tỉnh Quảng Đông.

2 Đế lực: là những việc làm của vua. Bài hát Khang cù có câu: “Canh điền nhi thực, tạc tỉnh nhi ẩm, đế lực hà hữu vu ngã tai?”

(Tự cày ruộng mà ăn, tự đào giếng mà uống, việc làm của vua nào có cho ta?). Ý nói, không phải chịu ơn vua. Sách Hán thư có câu: “Thu hào giai đế lực dã” (mảy may đều là của vua). Trong thơ Trịnh Hoài Đức, thì lại gồm cả hai ý trên.

3 Bao lão phố: vườn lão Bao, tức Bao Chửng, người Hợp Phì, đời Tống, tên tự là Hy Nhân. Thời Tống Nhân Tông, ông giữ chức tri phủ phủ Khai Phong, chấp pháp nghiêm minh, quan thân quý thích vì ông mà kiêng dè, dân chúng cũng chẳng dám lừa dối, dẫu đàn bà con trẻ cũng biết tiếng ông. Bấy giờ ở kinh thành có câu rằng: “quan tiết bất đáo, hữu Diêm La Bao lão” (chẳng vì riêng tư, có lão Bao như Diêm La). Tính ông ít cười, nên người ta ví có được nụ cười của ông như nước sông Hoàng Hà trong. Ông làm quan đến chức Khu mật phó sứ, lúc mất đặt thuỳ là Hiếu Túc. Có lẽ chính vì Bao Chửng quá siêng năng trong công việc, ngược với Đào Tiềm (Đào Tiềm thì sợ khóm cúc hoang vu, từ quan mà về, còn Bao Chửng thì mải lo việc quan, nên khu vườn của Bao Chửng không người chăm sóc để hoang) vì vậy, Trịnh Hoài Đức mượn cúc vườn lão Bao để nói lên sự tàn tạ của cúc chăng?

4 Việt vương đài: đài vua Việt, đài nằm trên núi Việt Tú, phía

bắc tỉnh trị Quảng Đông. Triệu Đà (Triệu Vũ vương) dựng đài trên núi ấy nhân đó đặt tên là Việt vương đài. Thơ Hàn Dũ có câu: Nhạc tấu Vũ vương đài (Nhạc trỗi trên đài Vũ vương). Vũ vương đài cũng chính là Việt vương đài.

5 Thoát thai: Sâm Đồng Khế có câu: “Công thành chi hậu, thoát thai xuất khẩu” (sau khi công phu tựu thành thì sinh ra từ

miệng). Ở đây ý nói đạo gia tu dưỡng thánh thai, cuối cùng sinh ra từ miệng. Về sau, nghĩa này bị thay đổi, người ta làm sự việc nào đó thay hình đổi dạng thành một sự vật khác.

6 Quan cái: chỉ mũ lọng, phục sức của nhà quan. Phú của Ban Cố có câu: “Quan cái như vân, thất tướng ngũ công” (mũ lọng

như mây, bảy tướng năm công). Lại có nghĩa là người có sứ mệnh đi qua đi lại không dứt.

7 Lạc Dương: là một trong những kinh đô cổ nổi tiếng phồn hoa ở Trung Quốc, nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.


Dịch nghĩa:

Giữa lưng đeo trường kiếm, tựa vào trời xanh, Muôn hốc núi âm u, côn trùng lạnh kêu rỉ rả. Vườn họ Bao, mấy hàng cúc hoang tàn,

Đài vua Việt, gió thổi cội tùng xơ xác. Rượu lên đến độ xưng thánh, thì là vô lượng,

Thơ đến chỗ kinh cả thần linh, ấy là thoát thai (xuất khẩu thành thơ).

Trên đường kia có bao nhiêu người khách đội mũ che lọng?

Từng ngắm hoa nơi đất Lạc Dương trở về.

Dịch thơ:

Lưng đeo trường kiếm dựa trời mây, Vạn hốc âm u dế thở dài.

Lối cúc điêu tàn Bao lão phố, Gió thông réo rắt Việt vương đài.

Rượu say xưng thánh rằng vô lượng, Thơ đến kinh thần ắt thoát thai.

Trước lối bao nhiêu người mũ lọng, Ngắm hoa giữa chốn Lạc Dương này?


156/11.

自 我 勞 勞 屢 雁 賓半 年 北 嶺 半 南 旻凌 波 濕 透 王 生 襪冒 雪 寒 侵 孟 浩 巾默 數 道 途 多 苦 況暗 矜 筋 力 尚 強 人蒼 梧 行 見 農 桑 樂舜 教 南 巡 未 隕 淪

Tự ngã lao lao lũ nhạn tân,

Bán niên bắc lĩnh bán nam mân. Lăng ba thấp thấu Vương Sinh miệt,1 Mạo tuyết hàn xâm Mạnh Hạo cân.2 Mặc số đạo đồ đa khổ huống,

Ám căng cân lực thượng cường nhân. Thương Ngô hành kiến nông tang vụ, Thuấn giáo nam tuần vị vẫn luân.

Dịch nghĩa:

Từ độ ta nhọc nhằn làm lũ khách như cánh nhạn,



1 Vương Sinh: tức Vương Duy, người Thái Nguyên, tên tự Ma Cật, thời Đường Huyền Tông, làm quan đến chức Thượng thư Hữu thừa, người đời gọi là Vương Hữu thừa, ông giỏi thơ, vẽ tranh sơn thuỵ rất đẹp, người ta gọi là “trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ”, cũng là tổ của phái hoạ Nam tông, ông có căn nhà ở Võng Xuyên (ở huyện Lam Điền tỉnh Thiểm Tây, cảnh sắc núi non, sông nước tân kỳ, vừa hiểm trở lại vừa kỳ thú), thường cùng Bùi Địch dạo chơi ở Võng Xuyên, làm thơ vẽ tranh. Trịnh Hoài Đức dùng chuyện này để nói mình trèo đèo vượt suối, nhưng không phải là du ngoạn như Vương Duy.

2 Mạnh Hạo: tức Mạnh Hạo Nhiên, người Tương Dương, nhà thơ nổi tiếng đời Đường, ông cũng là nhà thơ phái điền viên sơn

thuỵ như Vương Duy. Ông có câu thơ: “Bất tài minh chủ khí, quy ngoạ cố sơn thu” (vì bất tài nên minh chủ bỏ, đành quay về núi xưa nằm trong cảnh thu).

Nửa năm ở núi bắc, nửa năm ở trời nam. Vượt sóng thấm ướt hài vải Vương Duy, Đội tuyết lạnh lùa khăn Mạnh Hạo.

Nhẩm tính quãng đường đi lắm gian khổ, Thầm mừng gân sức vẫn còn như người trẻ trai.

Ngang qua Thương Ngô thấy được mùa dâu, Thật là phương Nam vẫn còn thấm nhuần giáo hoá của vua Thuấn.

Dịch thơ:

Từ độ nhọc nhằn khách xứ xa, Trời nam, núi bắc, một năm qua.

Vương Sinh hài ấy dầm sương sóng, Mạnh Hạo khăn này đẫm tuyết pha. Nhẩm tính đường dài bao khổ cảnh, Thầm mừng gân sức vẫn niên hoa. Thương Ngô ngang thấy mùa dâu trẩy, Thuấn giáo phương nam vẫn chửa nhoà.


157/12.

近 來 海 外 絕 波 氛中 國 遙 知 有 聖 君重 譯 南 行 占 出 日孤 帆 北 望 入 高 雲棚 城 幸 沐 春 風 化銅 柱 彌 隆 宿 世 勳歲 暮 巴 江 江 上 過敢 將 公 事 歎 離 群

Cận lai hải ngoại tuyệt ba phân, Trung Quốc dao tri hữu thánh quân.

Trùng dịch3 nam hành chiêm xuất nhật, Cô phàm bắc vọng nhập cao vân.

Bằng thành hạnh mộc xuân phong hoá, Đồng trụ4 di long túc thế huân.

Tuế mộ Ba giang5 giang thượng quá, Cảm tương công sự thán li quần.

Dịch nghĩa:

Dạo này ngoài bể không còn sóng dữ, Trung Quốc xa biết có đấng thánh quân.

Từ phương nam đi sứ, xem bóng mặt trời mọc, Cánh buồm côi về phía bắc tưởng lẫn vào mây. Thành gác may mắn gội trong cảnh xuân,

Trụ đồng to lớn, mà công lao đã qua. Cuối năm ta qua sông Ba giang,

Đâu dám đem việc công mà than nỗi cách xa.

Dịch thơ:


3 Trùng dịch: cũng như phiên dịch, ở đây chỉ việc đi sứ.

4 Đồng trụ: cột đồng. Lâm ấp ký chép: Mã Viện trồng hai cây trụ đồng ở nam giới Tượng Lâm để chia ranh giới với nước Tây

Đồ. Các thuyết xưa nói rằng, nay ở mé tây huyện Khâm tỉnh Quảng Đông. Còn Tượng Lâm là vùng đất Thuận Hoá của nước An Nam (Việt Nam ta). Ở đây Trịnh Hoài Đức cũng như Ngô Nhân Tĩnh đều nói đến cột đồng do Mã Viện dựng ở Quảng Đông.

5 Ba Giang: sông Ba Thuỵ, ở Hà Nam.


Ngoài biển nghe rằng sóng dữ yên, Trung Hoa xa biết có vua hiền.

Từ nam, đi sứ nhìn trời rạng, Ngóng bắc, buồm côi lẫn khói tiên. Thành gác đằm xuân cơn gió mát,

Cột đồng càng lớn chiến công thiêng. Sông Ba lại vượt, năm tàn muộn, Công cán ai người than thở riêng.


158/13.

葉 睡 相 思 日 欲 昏椰 帆 迢 遞 白 沙 墩沖 寒 雉 浴 江 頭 水破 曉 雞 鳴 洞 裏 村問 酒 漫 沽 酬 冷 淡呼 童 且 酌 話 溫 存明 朝 更 換 梧 州 艇須 向 行 裝 細 討 論

Diệp thuỳ tương tư nhật dục hôn, Da phàm điều đệ Bạch Sa1 đồn. Xung hàn trĩ dục giang đầu thuỵ, Phá hiểu kê minh động lý thôn. Vấn tửu mạn cô thù lãnh đạm, Hô đồng thả chước thoại ôn tồn.

Minh triêu cánh hoán Ngô Châu đĩnh, Tu hướng hành trang tế thảo luân.

Dịch nghĩa:

Lá khép lại như tương tư, mặt trời sắp lặn, Cánh buồm xa xa về bến Bạch Sa.

Chim trĩ tắm mình dưới nước để xua cơn rét, Tiếng gà gáy trong thôn làm tan màn đêm.

Hỏi mua chút rượu để xua cơn lạnh lùng, Gọi trẻ nhỏ vừa rót vừa nói chuyện ôn tồn. Sáng mai lại đổi thuyền sang Ngô Châu, Nên dặn dò kỷ càng thu xếp hành trang.

Dịch thơ:

Tương tư lá khép, bóng chiều tà, Thấp thoáng buồm về bến Bạch Sa. Tránh rét trĩ ngâm đầu bãi nước, Tàn đêm gà gáy giữa thôn nhà.

Pha trà gọi trẻ, câu nồng ấm,

Rót rượu xua hàn, chuyện nhẩn nha. Mai sớm Ngô Châu thuyền lại đổi, Hành trang gói ghém chớ quên à!


159/14.

家 書 初 啟 見 平 安喜 慰 何 須 徹 尾 看自 我 爲 臣 能 建 節知 卿 教 子 解 和 凡水 歸 有 水 源 流 遠


1 Nguyên chú: địa danh.

山 到 無 山 地 步 寬爲 語 南 從 門 下 客檀 車 將 駕 鋏 休 彈

Gia thư sơ khải kiến bình an, Hỉ uý hà tu triệt vĩ khan.

Tự ngã vi thần năng kiến tiết, Tri khanh giáo tử giải hoà hoàn.

Thuỵ quy hữu thuỵ nguyên lưu viễn, Sơn đáo vô sơn địa bộ khoan.

Vị ngữ nam tùng môn hạ khách,2 Đàn xa tương giá giáp hưu đàn.3

Dịch nghĩa:

Thư nhà vừa mở ra xem thấy bình an, Mừng vui đâu cần xem đến hết thư.

Tự thuở ta làm bầy tôi biết dựng điều tiết nghĩa,

Biết nàng dạy con có phương pháp.

Nước chảy về biển, dòng nước thêm sâu dài, Núi cao đến mức không còn núi, đường đi thênh thang.

Nhắn gởi về nam người khách dưới cửa kia, Xe sắp thắng ngựa lên đường, chớ gõ gươm ca. Dịch thơ:

Thư nhà vừa mở đặng bình an, Mừng chẳng cần xem đến cuối hàng. Tiết nghĩa bầy tôi, ta gắng dựng,

Lẽ thường con cháu, thiếp khuyên lơn. Nước trôi về biển, nguồn sâu thẳm, Non ngất cùng non, bước vững vàng. Nhắn gửi về nam, người dưới cửa,

Xe đàn sắp thắng, chớ ca vang!


160/15.

深 深 旅 雁 度 南 關我 尚 離 家 未 暫 還碁 賦 有 人 爭 老 手乾 坤 無 藥 住 童 顏雲 封 下 古 滄 桑 局雪 撒 中 州 白 玉 環 4此 去 燕 臺 應 不 遠舉 頭 紅 日 在 前 山

Thâm thâm lữ nhạn độ Nam quan, Ngã thượng li gia vị tạm hoàn.

Kì phú hữu nhân tranh lão thủ, Càn khôn vô dược trú đồng nhan.



2 Môn hạ khách: khách dưới cửa. Trong bài này đang nhắc đến điển Phùng Hoan, nhưng tác giả ám chỉ Lê Quang Định sắp đi sứ.

3 Đàn xa: xe bằng gỗ đàn. Xưa thường dùng gỗ cây đàn để làm xe vì gỗ cây đàn cứng, cũng dùng để chỉ xe dùng trong quân

dịch. Giáp hưu đàn: đừng gõ kiếm, điển Phùng Hoan gõ kiếm ca ở nhà Mạnh Thường Quân. Ở đây tác giả có ý chỉ việc Lê Quang Định cũng sắp đi sứ.

4 Bản A.780 chép là


Vân thôn Hạ Cổ1 thương tang cục,2 Tuyết tát Trung Châu3 bạch ngọc hoàn. Thử khứ Yên Đài4 ưng bất viễn,

Cử đầu hồng nhật tại tiền san.

Dịch nghĩa:

Từng đàn nhạn bay qua cửa ải Nam quan, Ta còn xa nhà, chưa về được.

Cờ phú đã có người tranh vị trí nhất,

Đất trời nào có thuốc giữ mãi tuổi thanh xuân. Mây phủ trời Hạ Cổ, đời như biển dâu thay đổi,

Tuyết rắc đất Trung Châu, cuộc sống quẩn quanh tựa chuỗi ngọc trắng.

Từ đây đến Yên Đài chắc không còn xa nữa, Ngẩng đầu mặt trời đỏ ở đầu non.

Dịch thơ:

Từng đàn nhạn bắc vượt Nam quan, Ta vẫn xa quê cách biệt làng.

Cờ phú có người tranh lão luyện, Đất trời không thuốc giữ dung nhan. Mây giăng Hạ Cổ, đời dâu bể,

Tuyết rắc Trung Châu, chuỗi ngọc quàng. Đường đến Yên Đài chừng mấy quãng?

Đầu non vầng nhật rực trông sang.


161/16.

飄 颻 浿 水 繡 旌 懸北 向 開 河 路 萬 千衣 薄 夢 思 驅 雪 箒帆 遲 坐 訝 載 山 船篙 師 相 盪 歌 如 哭茶 僕 驚 寒 起 又 眠水 汛 縣 城 過 問 譯紀 程 聊 當 解 愁 篇

Phiêu diêu Bối Thuỵ tú tinh huyền, 5

Bắc hướng khai hà lộ vạn thiên. Y bạc mộng tư khu tuyết trửu, Phàm trì toạ nhạ đới sơn thuyền. Cao sư tương đãng ca như khốc, Trà bộc kinh hàn khởi hựu miên,

Thuỵ tấn huyện thành qua vấn dịch, Kỵ trình liêu đáng giải sầu thiên.

Dịch nghĩa:

Cờ tinh thêu phơ phất trên sông Bối Thuỵ, Sông mở về phương bắc cả trăm lối đi.

Áo mỏng, mơ có được chổi để quét sạch tuyết,


1 Hạ Cổ: chưa biết ở đâu.

2 Thương tang cục: cuộc biển dâu, chỉ sự đổi dời, từ chữ “thương hải tang điền”.

3 Trung Châu: chỉ Trung Nguyên, Trung Quốc.

4 Yên Đài: chỉ Bắc Kinh, Trung Quốc.

5 Bối Thuỵ: Nguyên chú: địa danh. Theo Trung Quốc cổ kim

địa danh đại từ điển, huyện Bối Thuỵ nay là Nghĩa Châu thuộc bờ Nam sông Ấp Lục, Triều Tiên. Sông Bối Thuỵ, nay gọi là sông Ấp Lục giang.

Thuyền đi chậm, ngồi xem ngỡ chở cả núi non. Người quẫy chèo giao nhau hát như khóc,

Kẻ hầu trà sợ rét ngủ gà gật.

Huyện thành ở bến sông thăm hỏi tình hình, Ghi chép việc đi đường làm bài giải sầu.

Dịch thơ:

Cờ gấm dạt dào Bối Thuỷ tuôn, Sông xui về bắc vạn đường mòn. Áo manh, ước chổi xua tàn tuyết,

Buồm nặng, ngỡ thuyền chở núi non. Bạn lái nhịp nhàng ca tựa khóc, Hầu trà lạnh lẽo mộng chon von.

Huyện thành bến nước qua thăm hỏi, Ghi chép tạm xem khúc giải buồn.


162/17.

何 有 隆 冬 朔 雪 驕儐 臣 熱 血 自 能 調一 川 堤 蔭 丹 楓 葉兩 岸 田 抽 小 麥 苗思 客 港 頭 遙 舊 路望 夫 山 下 急 征 橈東 歸 淡 蕩 三 榕 水不 逐 行 人 報 信 潮

Hà hữu long đông sóc tuyết kiêu, Tân thần nhiệt huyết tự năng điều. Nhất xuyên đê ấm đan phong diệp,

Lưỡng ngạn điền trừu tiểu mạch miêu. Tư Khách hạng đầu dao cựu lộ,6

Vọng Phu sơn hạ cấp chinh nghiêu.7 Đông quy đạm đãng Tam Dung thuỵ,8 Bất trục hành nhân báo tín triều.

Dịch nghĩa:

Trời đông rét mướt, tuyết phương bắc rơi lạnh sao,

Nhiệt huyết của sứ thần có thể tự điều hoà. Cả bờ sông rợp mát lá phong đỏ,

Hai bên bờ ruộng lúa non nẩy mầm xanh. Đầu ngõ Tư Khách có con đường xưa xa xa, Dưới núi Vọng Phu mái chèo gấp khua.

Đường về đông, dòng Tam Dung quang tạnh, Người đi đường không dứt báo tin con nước. Dịch thơ:

Đất bắc đông sang tuyết lạnh nhiều, Há đâu nhiệt huyết sứ thần tiêu.

Đôi bờ ruộng lúa xanh mơn mởn, Một dải sông phong đỏ hắt hiu. Dưới núi Vọng Phu, chèo lướt vội,


6 Tư Khách hạng: Ngõ Tư Khách. Nguyên chú: tại Phú Xuân kinh đông nam (ở phía đông nam kinh đô Phú Xuân).

7 Vọng Phu sơn: núi Vọng Phu. Nguyên chú: tại Quảng Đông giang bắc (ở phía bắc sông Quảng Đông).

8 Tam Dung thuỵ: sông Tam Dung. Nguyên chú: triều thuỷ chí

thử nhi chỉ (nước triều đến đây thì hết).


Đầu đường Tư Khách, ngõ phong rêu. Tam Dung lờ lững xuôi đông chảy, Chẳng giúp người đi báo tín triều.


163/18.

持 危 履 險 伏 師 梢檜 雨 簧 風 任 戶 敲抱 火 漁 翁 宵 下 釣披 簑 山 客 晝 于 茅漸 從 佳 景 同 嚵 蔗有 用 吾 生 豈 繫 匏萬 里 經 過 王 事 者岑 溪 惆 悵 孝 鳩 巢

Trì nguy lý hiểm phục sư sao, Cối vũ hoàng phong nhậm hộ xao. Bão hoả ngư ông tiêu hạ điếu,

Phi xoa sơn khách trú vu mao. Tiệm tùng giai cảnh đồng sàm giá,1 Hữu dụng ngô sinh khởi hệ bào.2 Vạn lý kinh qua vương sự giả,

Sầm khê trù trướng hiếu cưu sào.

Dịch nghĩa:

Chèo chống hiểm nguy cậy có bạn chèo, Cây cối trúc vàng mặc mưa gió gõ lùa. Lão chài ôm đèn, ban đêm thả câu,

Ông tiều đắp áo tơi, buổi sáng trở về nhà cỏ. Dần vui theo cảnh đẹp như kiểu nhai mía, Đời ta có chỗ dùng, há là quả bầu treo hờ.

Trải qua vạn dặm bởi làm việc vua,

Núi khe cao ngất, tổ chim cưu kêu buồn.

Dịch thơ:

Chống nguy đỡ hiểm cậy ai chèo, Gió trúc mưa mai gõ cửa reo.

Ôm đuốc ngư ông đêm thả móc, Khoác tơi sơn khách sáng về lều. Dần xem cảnh đẹp, như nhai mía, Hữu dụng đời ta, bầu hão treo? Vạn dặm trải bao điều vương sự, Non cao buồn bã hiếu cưu kêu.


164/19.

樂 有 天 然 散 鬱 陶沖 寒 獨 自 覆 香 醪無 絃 琴 是 知 音 客不 朽 名 歸 命 世 豪

韶 石 徽 聲 重 隔 霧蒼 梧 古 道 半 埋 篙行 人 欲 鼓 湘 靈 瑟千 載 湘 靈 調 正 高

Lạc hữu thiên nhiên tán uất đào, Xung hàn độc tự phúc hương lao. Vô huyền cầm thị tri âm khách, Bất hủ danh quy mệnh thế hào.

Thiều thạch chuỵ thanh trùng cách vụ, Thương Ngô Cổ Đạo bán mai cao.

Hành nhân dục cổ Tương Linh sắt,3 Thiên tải Tương Linh điệu chính cao.

Dịch nghĩa:

Vui có cảnh thiên nhiên làm tan nỗi sầu muộn, Xua cơn lạnh một mình uống rượu thơm.

Đàn không dây đó là khách tri âm, Cái danh bất hủ đều do số mệnh lớn.

Tiếng chuỵ, nhạc thiều, lẩn trong sương móc, Thương Ngô Cổ Đạo có mái chèo nửa bị vùi. Người đi đường muốn gảy đàn Tương Linh, Ngàn năm tiếng đàn Tương Linh vẫn vút cao. Dịch thơ:

Mừng có thiên nhiên giãi nỗi sầu, Lạnh lùng mượn rượu chuốc xua mau. Đàn không dây ấy người tri kỷ,

Danh chẳng mục do vận số vào.

Tiếng chuỷ điệu thiều, sương lẩn vọng, Thương Ngô Cổ Đạo, mái dầm sâu.

Ai người định gảy Tương Linh sắt? Ngàn thuở Tương Linh điệu vút cao.


165/20.

三 見 他 鄉 十 月 過村 臨 楊 柳 奈 愁 何柴 扉 寂 寞 峰 岩 冷瓜 艑 遲 迥 水 石 磨君 國 未 酬 恩 義 重歲 時 休 較 別 離 多推 窗 高 喚 招 舟 子起 椗 飛 橈 急 渡 河

Tam kiến tha hương thập nguyệt qua, Thôn lâm Dương Liễu nại sầu hà.4 Sài phi tịch mịch phong nham lãnh, Qua biển trì quynh thuỵ thạch ma.

Quân quốc vị thù ân nghĩa trọng,



1 Sàm giá: nhai mía. Ông Cố Khải Chi mỗi khi ăn mía thì ăn từ ngọn tới gốc và nói rằng "dần dần vào cảnh thú" (tiệm chí giai

cảnh 漸至佳境). Vì thế nên sự gì từ khổ mà đến sướng gọi là giá cảnh 蔗境.

2 Quả bầu. Sách Luận ngữ nói: "Ngô khởi bào qua dã tai, yên năng hệ nhi bất thực" 吾豈匏瓜也哉 ! 焉能繫而不食 (Ta há

phải là quả bầu đâu ! Sao hay treo mà ăn không được). Tục gọi kẻ sĩ không được dùng làm quan là "bào hệ" 匏 繫 nghĩa là để

hờ hão thôi, không có dùng làm gì.

3 Tương Linh sắt: đàn sắt Tương Linh, Tương Linh hay Tương phi, vợ vua Thuấn. Tương truyền, khi vua Thuấn tuần thú phương Nam mất ở đồng Thương Ngô, hai bà vợ của vua là Nga Hoàng và Nữ Anh ôm đàn sắt đi tìm, đến bờ sông Tương khóc than, nước mắt nhuốm vào trúc ở đó làm trúc đốm vàng, rồi trầm mình xuống sông Tương. Sau khi mất, thường hiện hồn gãy đàn sắt trên sông Tương, tiếng đàn ai oán não nùng.

4 Nguyên chú: thôn danh (tên thôn). Dương Liễu: thôn Dương Liễu.

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí