Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 35


TIỄN THAM TRI BINH BỘ TĨNH VIỄN HẦU NGÔ NHỮ SƠN ĐI SỨ, TỰA DẪN

Vào năm Bính Ngọ (1786), Tây Sơn Nguyễn Quang Bình, nhân nước An Nam vua yếu thần mạnh, học Trịnh chuyên quyền, lòng người nhớ đến công đức những đời vua trước triều ta, bèn trộm lấy danh nghĩa nhà vua dấy binh ra thành Thăng Long đánh dẹp kẻ loạn thần, vua Lê Chiêu Thống phải bỏ sang nước Đại Thanh. Năm Mậu Ngọ (1798), Tĩnh Viễn hầu phụng mệnh sang Quảng Đông hỏi thăm tin tức của vua Lê Chiêu Thống, ban đầu đi thuyền đến cảng Giang Môn, vì gặp quân Bạch Liên giáo nổi loạn ở Tứ Xuyên, đường xá tắc nghẽn, nên quay trở về. Năm Kỵ Mùi (1799), sau khi quân sư tiến quân, thành Quy Nhơn đầu hàng, trong cơn gió bão lớn, quan quân đường thuỵ bị trôi giạt đến huyện Lăng Thuỵ, Quỳnh Châu, Quảng Đông, được quan địa phương cấp cho áo quần lương thực, sửa chữa tàu thuyền dẫn đường về nước. Năm nay, Ngô hầu lại phụng mệnh sang sứ đất Lưỡng Quảng để tạ ơn và bàn việc nhập cống, bấy giờ, đức vua dẫn quân từ thành Gia Định tiến ra giải vây thành Quy Nhơn, lưu tôi giữ việc quân lương ở vụng biển trấn Bình Hoà, đón gặp sứ thuyền từ Gia Định đến, bèn bảo các bạn tặng thơ để treo lên cờ sứ, bèn nói đến nơi hành tại để bái mệnh, trước đây tôi nhân có một bài hoạ vần, hai bài biệt vận để bày tỏ tình cảm đưa tiễn. Người xưa nói: quân tử đưa tiễn nhau bằng lời, thì tôi không thể không nói một lời mà làm bài tựa này.

Thẹn không có tấc lưỡi giỏi để trấn áp quần hùng hào kiệt, 1

Nơi đất khách khiêm nhường, khiến mọi người khen ngợi.

Chuyện lương tiền, tôi còn phải lo mọi người sau trận chiến,

Việc đi sứ, anh đang đi trong gió buồm giương cao.

Xoay tít chân ưng, nối liền cõi ngao, Tắm gội ao hoàng, giang mở cánh phụng.

Từ đây đi hãy cố gắng thu được kết quả tốt, Chúa công còn đang lo lắng, thì bầy tôi cũng chẳng nề hà chuyện luôn mệt nhọc.

Dịch thơ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Thẹn không tấc lưỡi áp quần hào,

Đất khách khiêm nhường, được tiếng tao. Tiền gạo, tôi còn lo trận tuyến,

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 35

Cờ mao, anh lại nắm giương đầu. Ao hoàng tắm gội, thêm lông phụng,


1 Câu này xuất từ chuyện Khổng Minh sang Đông Ngô dùng ba tấc lưỡi thuyết phục nhân sĩ Đông Ngô hợp sức đánh Tào.

Móng vuốt xoay vòng, nối cõi ngao. Cố gắng từ đây thu thắng lợi,

Chúa buồn, thần cũng sá gian lao.


120.

其二

英雄氣概凜風雷不辱終歸磊落才莫使皇風孤化外早成王事報春魁謝恩旗作稱藩引納欵書從辨僞裁休向沙塲拘別句十秊前已築詩臺

KỲ NHỊ

Anh hùng khí khái lẫm phong lôi, Bất nhục chung quy lỗi lạc tài.

Mạc sử hoàng phong cô hoá ngoại, Tảo thành vương sự báo xuân khôi. Tạ ân kỳ tác xưng phiên dẫn,

Nạp khoản thư tòng biện nguỳ tài. Hưu hướng sa trường câu biệt cú, Thập niên tiền dĩ trúc thi đài.

Dịch nghĩa:

BÀI 2

Khí khái bậc anh hùng lẫm liệt tựa gió sấm, Không nhục mạng đi sứ ấy cũng đều là do tài năng lỗi lạc.

Đừng để phong tục của vua ta trở nên lẻ loi bên ngoài,

Mà sớm làm xong việc của vua giao để báo đáp ơn xuân.

Vì tạ ơn, cờ làm bài dẫn xưng thần,

Để nạp khoản, thư nêu những điều phải trái. Xin chớ nệ chấp lời li biệt của tôi nơi sa trường,

Mười năm trước biết anh là người lập nên thi đàn.

Dịch thơ:

Khí khái anh hùng tựa sấm mây, Lo tròn sứ mạng bởi do tài.

Hoàng phong đừng để bên trời lẻ, Vương sự mau xong, đáp ý dày.

Nạp khoản, thư nêu điều phải quấy, Tạ ơn, cờ viết chuyện đường ngay. Sa trường chớ nệ câu li biệt,

Kỷ trước thi đàn, đã dựng gây.


121.

其三

慕義酬恩出聖猷彌縫功就屬吾儒


山浮瑞氣迎旄節海奠安瀾護畫艫越地新霑天雨露南藩增廣帝輿圖歸來拜揖分茅命折取梅枝掛寚12

KỲ TAM

Mộ nghĩa thù ân xuất thánh du, Di phùng công tựu thuộc ngô nho.

Sơn phù thuỳ khí nghênh mao tiết, Hải điện an lan hộ hoạ lô.

Việt địa tân triêm thiên vũ lộ, Nam phiên tăng quảng đế dư đồ. Quy lai bái ấp phân mao mệnh, Chiết thủ mai chi quải bảo phù. Dịch nghĩa:

BÀI 3

Vì mến nghĩa đền ơn, xuất sứ cõi đất vua, Công việc bổ cứu quả thuộc về bọn nhà nho ta. Núi tràn hơi mây tốt đón nghênh đoàn sứ,

Biển lặn sóng yên bảo vệ thuyền sứ.

Cõi Việt vừa được gội ơn mưa móc của trời, Vùng phía Nam mở rộng thêm bờ cõi của vua. Ngày trở về bái lạy nhận ơn ban thưởng,

Bẻ một cành mai để treo làm ấn tín.

Dịch thơ:

Xuất sứ, đền ơn mến nghĩa mà. Cái công bổ cứu, thuộc Nho gia. Núi tràn hơi tốt, nghênh cờ tiết, Biển lặng sóng hiền, giúp sứ hoa. Cõi Việt vừa nhuần mưa móc mới, Vùng Nam thêm rộng cõi sơn hà. Ngày về bái tạ ơn ban thưởng,

Bẻ một cành mai treo ấn hoa.


122.

秋日虬蒙山屯書事說到沙場夢亦驚 乾坤易老恨難平 山谿慣駕開宸座 鳥獸馴人雜路行 木末經秋粘戰血 禾根入夜宿奇兵 闍槃礮震烽冲地 一將身懸國重輕


1 Nguyên văn khắc chữ này giống như chữ nhưng không có bộ bối ở dưới (trên bộ miên, dưới trái bộ ngọc, phải bộ phữu).

Chúng tôi nghĩ là một dạng khác của chữ . Đồng thời bảo

phù nằm ở đây cũng hợp nghĩa, bảo phù nghĩa là ấn tín của vua. 2 Nguyên chú: 是年歸仁之圍未解兵事旁午南風又晚使不果行 (Năm ấy, thành Quy Nhơn bị vây chưa giải được, việc quân

phải chờ có gió nam, từ trưa đến chiều tối, khiến cho quân không dám đi tiếp viện.)

THU NHẬT CẦU MÔNG SƠN ĐỒN THƯ SỰ

Thuyết đáo sa trường mộng diệc kinh, Càn khôn dị lão hận nan bình.

Sơn khê quán giá khai thần toạ, Điểu thú tuần nhân tạp lộ hành. Mộc mạt kinh thu niêm chiến huyết, Hoà căn nhập dạ túc kỳ binh.

Đồ Bàn bác chấn phong xung địa,

Nhất tướng thân huyền quốc trọng khinh.

Dịch nghĩa:

NGÀY THU Ở ĐỒN NÚI CÙ MÔNG VIẾT LẠI SỰ VIỆC

Nói đến chuyện sa trường, trong mơ cũng kinh hoàng,

Tuổi tác dễ già, hận khó tan hết.

Núi khe quen theo hầu giá, mở chỗ cho vua ngồi,

Chim thú quen người, cùng đi lẫn trên đường. Ngọn cây trải qua mùa thu còn dính vết máu chiến trận,

Gốc lúa vào đêm lại chứa thêm kỳ binh. Thành Đồ Bàn, tiếng đại bác nổ vang, lửa tràn mặt đất,

Thân tướng hiểm nguy cũng không bằng sự an nguy của nước.

Dịch thơ:

Nhắc đến sa trường, mộng cũng kinh. Càn khôn dễ đổi, hận khôn bình.

Núi khe hầu giá, bày cung khuyết, Chim thú quen quân, cũng bộ hành. Gốc lúa qua đêm, che xác lính, Ngọn cây thu đến, nhiễm hơi tanh. Đồ Bàn pháo nổ, loang trời đất,

Binh tướng thân nguy, trọng quốc tình.


123.

山屯秋雨

淋漓砦壁滑如酥壑漲溪漫雨載途卒掛簑衣傳將令濠關木馬3洗觚殳鼓鳴帥幕聲猶濕檄發詞言墨尚濡忠甲義旗秋不冷闍槃遙向語征夫

SƠN ĐỒN THU VŨ

Lâm ly trại bích hoạt như tô, Hác trướng khê mạn vũ tái đồ. Tốt quải xoa y truyền tướng lệnh, Hào quan mộc mã tẩy cô thù.



3 Nguyên chú: 戰具 (đồ dùng đánh trận).


Cổ minh soái mạc thanh do thấp, Hịch phát từ ngôn mặc thượng nhu. Trung giáp nghĩa kỳ thu bất lãnh, Đồ Bàn dao hướng ngữ chinh phu. Dịch nghĩa:

MƯA THU Ở ĐỒN NÚI

Vách trại ướt nhèm, trơn như váng sữa, Suối khe tràn nước, mưa ngập đường.

Lính mang áo tơi để truyền lệnh của tướng, Dưới hào đóng cọc ngang, rửa khí giới.

Tiếng trống vang nơi trướng soái, tiếng như ướt,

Hịch phát ra từ người thảo hịch, mực còn đẫm. Quân binh đều là người trung nghĩa, nên giữa thu chẳng thấy lạnh,

Nhắn với kẻ chinh phu, hãy hướng về thành Đồ Bàn.

Dịch thơ:

Vách trại ướt đầm, tựa mỡ pha, Suối khe dâng nước, lối mưa nhoà. Lính truyền tướng lệnh, mang tơi lá, Hào rửa gươm đao, đóng cọc tà.

Trống động màn quân, âm ướt đục, Hịch truyền đã viết, mực còn sa.

Quân binh trung nghĩa, thu không lạnh, Hướng đến Đồ Bàn, nhắn kẻ xa.

辛酉年

TÂN DẬU NIÊN (1801)

124.

己未年四月,王師招降歸仁城,欽命掌後軍平西驂乘將軍性郡公武公性,禮部周正侯吳從周擁兵鎮撫,十二月,偽將阮耀大兵攻圍。庚申夏四月,王師出援,尚未克解。辛酉夏,御兵乘虛進取富春京,復命欽差掌左軍平西將軍悅進屯廣義鎮攻賊後背。余奉從兵給餉,時歸仁城圍久未解,內外阻絕,武吳二公以突圍獨全,必將士多死鋒鏑,義所不忍,而城中舊降將卒屢有異圖,多繾城夜遁者,加以城中糧絕,武公先於五月二十七日登城中八角樓自焚,吳公仰藥死節,遺令勿毁輜重全城降僞求活三軍之命。訃音至廣義屯舉皆哀慟,余因哭之以詩並誌其名臣大節云耳非以詩鳴也。

三載身輕百戰中城孤糧絕困英雄突圍不忍人爲席報國惟知我匪躬八角火同心共赤千秋聲與日爭紅

他年擬倣雲臺畫相將應推第一功

Kỵ Mùi niên tứ nguyệt, Vương sư chiêu hàng Quy Nhơn thành, Khâm mệnh Chưởng hậu quân Bình tây tham thừa tướng quân Tánh quận công Võ công Tánh, Lễ bộ Chu chính hầu Ngô Tòng Châu ủng binh trấn phủ, thập nhị nguyệt, nguỳ tướng Nguyễn Diệu đại binh công vi. Canh Thân hạ tứ nguyệt, Vương sư xuất viện, thượng vị khắc giải. Tân Dậu hạ, Ngự binh thừa hư tiến thủ Phú Xuân kinh, phục mệnh Khâm sai chưởng Tả quân Bình tây tướng quân Duyệt tiến đồn Quảng Nghĩa trấn công tặc hậu bối. Dư phụng tòng binh cấp hưởng, thời Quy Nhơn thành vi cửu vị giải, nội ngoại trở tuyệt, Võ Ngô nhị công dĩ đột vi độc toàn, tất tướng sĩ đa tử phong đích nghĩa sở bất nhẫn, nhi thành trung cựu hàng tướng tốt lũ hữu dị đồ, đa khiển thành dạ độn giả, gia dĩ thành trung lương tuyệt, Võ công tiên ư ngũ nguyệt nhị thập thất nhật đăng thành trung bát giác lâu tự phần, Ngô công ngưỡng dược tử tiết, di lệnh vật huỵ truy trọng toàn thành hàng nguỳ cầu hoạt tam quân chi mệnh. Phó âm chí Quảng Nghĩa đồn cử giai ai đỗng, dư nhân khốc chi dĩ thi, tịnh chí kỳ danh thần đại tiết vân nhĩ, phi dĩ thi minh dã.

KỲ NHẤT

Tam tải thân khinh bách chiến trung, Thành cô lương tuyệt khốn anh hùng. Đột vi bất nhẫn nhân vi tịch,

Báo quốc duy tri ngã phỉ cung. Bát giác hoả đồng tâm cộng xích,

Thiên thu thanh dữ nhật tranh hồng. Tha niên nghĩ phỏng Vân đài hoạ, Tướng tướng ưng suy đệ nhất công. Dịch nghĩa:

Tháng 4 năm Kỵ Mùi (1799), vương sư chiêu hàng thành Quy Nhơn, Khâm mệnh Chưởng hậu quân Bình tây tham thừa tướng quân Tánh quận công Võ Công Tánh, Lễ bộ Chu Chính hầu Ngô Tòng Châu mang binh thấn thủ, tháng 12, tướng Tây Sơn là Nguyễn Diệu cất đại binh công thành. Tháng 4 mùa hè năm Canh Thân (1800), vương sư ra cứu viện, nhưng vẫn chưa giải vây được. Hè năm Tân Dậu (1801), vua dẫn quân thừa khi Phú Xuân bỏ trống tiến đánh vào kinh đô Phú Xuân, lại mệnh cho Khâm sai Chưởng Tả quân Bình tây tướng quân Duyệt tiến đóng ở trấn Quảng Nghĩa để công địch phía sau. Tôi phụng mệnh theo quân lo việc cấp lương, bấy giờ thành Quy Nhơn bị vây đã lâu mà chưa giải được, trong ngoài cách trở, hai ông Võ Tánh và Ngô


Tòng Châu vì nghĩ nếu đột phá vòng vây để giữ thân mình, ắt tướng sĩ chịu chết trong chỗ đao thương, nên không nỡ, huống trong thành các binh tướng theo hàng nhiều người có ý khác, thường nhân đêm tối bỏ trốn, lại thêm trong thành hết lương, Võ công lên lầu bát giác trong thành mà tự thiêu vào ngày 27-5 trước, Ngô công uống thuốc độc tử tiết, để lệnh rằng xin chớ huỵ quân dụng trong thành, cả thành hàng Nguỳ để cầu cái sống cho ba quân. Tin buồn đến đồn Quảng Nghĩa, ai cũng thương xót, tôi nhân khóc các ông mà làm thơ để ghi nhớ cái tiết cả của người bầy tôi danh tiếng, chứ nào phải mượn thơ để cầu cái tiếng ở đời.

Suốt ba năm, trăm trận đánh, coi nhẹ thân mình,

Thành bị cô lập, lương cạn, anh hùng khốn đốn.

Nếu đột phá vòng vây, chẳng nỡ đem mạng người làm chiếu lót,

Đền ơn nước, chỉ cần biết ta không phải chịu bó mình.

Ngọn lửa nơi lầu bát giác cũng rực đỏ với lòng ông,

Tiếng để ngàn thu tranh sáng cùng bóng nhật. Năm nào như có vẽ tranh treo ở đài Mây, 1 Tướng tướng đều tôn ông là người có công bậc nhất.

Dịch thơ:

1.

Ba năm trăm trận, nhẹ hình hài, Lương cạn, anh hùng khốn giữa vây. Không nỡ phá thành, vì sĩ tốt,

Chỉ hay báo quốc, chẳng cung tay. Lửa lầu bát giác cùng tâm đỏ,

Tên tuổi ngàn năm với nhật tày. Tranh vẽ đài Mây năm khác chọn, Công đầu ông đứng chẳng còn ai!


2.

Ba năm trăm trận, tưởng như không, Lương cạn thành cô, khốn kẻ hùng. Không nỡ phá thành xua lính chết, Tự hay báo quốc gửi lòng trung.

Lửa lầu bát giác cùng tâm đỏ,

Tên tuổi ngàn năm sánh nhật hồng. Tranh vẽ đài Mây năm khác chọn, Công đầu bậc nhất chính là ông!


125.

其二


1 Đài Mây dịch từ chữ Vân đài. Đời Hán cho dựng Vân đài, và vẽ tượng những người có công bậc nhất để thờ ở đấy.

平生所學已收功杯酒從容節概雄一死歸仁酬帝眷千秋南越振文風妖氛辟易寒西賊義氣昭回並武公從此知卿多有後綿綿祭祀國家同2

KỲ NHỊ

Bình sinh sở học dĩ thu công, Bôi tửu thung dung tiết khái hùng. Nhất tử Quy Nhơn thù đế quyến,

Thiên thu Nam Việt chấn văn phong. Yêu phân tịch dịch hàn Tây tặc, Nghĩa khí chiêu hồi tịnh Võ công.

Tòng thử tri khanh đa hữu hậu, Miên miên tế tự quốc gia đồng. Dịch nghĩa:

BÀI 2

Những điều ông học được trong đời đã thu được công,

Một chén rượu độc thung dung uống, tiết khái thật anh hùng.

Thà chịu chết ở Quy Nhơn để báo đền ơn vua, Ngàn năm cõi Nam Việt được chấn hưng văn phong.

Tà khí đẩy lùi, khiến giặc Tây sợ hãi,

Nghĩa khí quây quần, sánh cùng ông Võ Tánh. Từ đây biết anh coi như đã có người thừa kế, Được nước nhà thờ, tế cúng mãi mãi.

Dịch thơ:

1.

Sở học bình sinh, nay thấy đây,

Khí hùng rượu độc uống khoan thai. Quy Nhơn vĩnh biệt, ơn vua trả, Nam Việt ngàn năm, văn mạch dày.

Nghĩa khí bừng bừng cùng Võ tướng, Hơi tà tan tác lạnh quân Tây.

Từ đây bác có người thờ phụng, Tế tự nước nhà hương khói bay. 2.

Bình sinh sở học, đã nên công,

Chén rượu thong dong, tiết khái hùng. Chết giữa Quy Nhơn, đền ý chúa, Ngàn thu Nam Việt, chấn văn phong. Hơi tà tan tác, kinh Tây tặc,


2 Nguyên chú: 吳公無子賊平之日朝議加贈武公爲中興第一功臣太尉國公吳公爲太子太師郡公春秋二祭並頒賜祀田守墓民夫各有差等恩至優渥 (Ngô công vốn không có con, ngày

bình giặc xong, triều đình bàn bạc ban tặng cho Võ công làm Trung hưng đệ nhất công thần, Thái uý quốc công; phong tặng Ngô công làm Thái tử thái sư quận công, được tế vào hai mùa xuân thu, đồng thời ban tặng cho tự điền, và người trông coi mộ phần, hai ông thật là được ân đức thấm nhuần lắm vậy).


Nghĩa khí quây quần, sánh Võ công. Từ biết rằng ông chừ có hậu,

Nước nhà hương khói được cùng chung.


126.

冬日廣義戰塲寄富春京吏部參知范玉韞戰地艱難眾與同

獨憐桂玉更囊空盈罍有酒卿逾畢彈鋏無魚我類馮風雨頻催寒薄罽鼓鉦時動怯羸驄除殘上將機猶待元濟生擒雪夜中

ĐÔNG NHẬT QUẢNG NGHĨA CHIẾN TRƯỜNG KÝ PHÚ XUÂN KINH LẠI BỘ THAM TRI PHẠM NGỌC UẨN

Chiến địa gian nan chúng dữ đồng, Độc liên quế ngọc cánh nang không. Doanh lôi hữu tửu khanh du Tất, Đàn giáp vô ngư ngã loại Phùng.

Phong vũ tần thôi hàn bạc kế,

Cổ chinh thời động khiếp luy thông. Trừ tàn thượng tướng cơ do đãi, Nguyên tế sinh cầm tuyết dạ trung. Dịch nghĩa:

NGÀY ĐÔNG Ở CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGÃI GỞI CHO LẠI BỘ THAM TRI PHẠM NGỌC UẨN Ở KINH ĐÔ PHÚ XUÂN

Nơi chiến địa cùng chịu gian nan với mọi người,

Thấy thương cho cành quế cành ngọc, túi rỗng không.

Có rượu đầy chung, anh hơn ông Tất Trác, 1 Gõ kiếm hát mà cơm không có cá, tôi giống Phùng Hoan. 2

Gió mưa nhiều phen giục giã, lạnh buốt trong chiết áo len mỏng,

Chiêng trống thường gõ vang, lũ ngựa gầy khiếp sợ.

Trừ hết tướng kia còn phải chờ đợi thời cơ, Cứu người bị bắt sống trong đêm tuyết lạnh. Dịch thơ:

Gian nan chiến địa với quân cùng,


1 Tất Trác: người vùng Đồng Dương, đời Tấn, lúc trẻ tính tình phóng khoáng, làm quan đến chức Lại bộ lang, thường uống rượu đến quên cả chức vị, nhà bên cạnh của ông nấu rượu, ông thường lén vào để uống, người canh gác bắt được trói lại, sáng mai nhìn lại mới thấy là Tất Trác, liền cởi trói cho ông.

2 Phùng Hoan: thực khách của Mạnh Thường Quân. Lúc đầu, ông không được Mạnh Thường Quân đãi ngộ, ăn cơm không có

cá thịt, không có rượu, đi không có xe, nên thường gõ kiếm hát. Khi nghe các thực khách khác kể chuyện đó, Mạnh Thường Quân đãi ngộ ông, sau này chính ông là người giữ vững ngôi vị cho Mạnh Thường Quân.

Quế ngọc thương thầm, túi rỗng không. Rượu rót đầy chung, anh tựa Tất,

Kiếm ca không cá, tớ như Phùng. Gió mưa, áo mỏng run cơn lạnh,

Chiêng trống, ngựa gầy khiếp đứng nhông. Trừ hết tướng kia, thời vẫn đợi,

Cứu người bắt sống giữa đêm đông.


127.

兵塲得長子天性亡信3軍前聞報汝云亡

公義私恩背刺茫養母兒先歸隴土事君我尚在沙塲王卿不盡情鍾嘆延廣徒增命短傷昔日家書徵汝字行行墨跡淚行行

BINH TRƯỜNG ĐẮC TRƯỞNG TỬ THIÊN TÍNH VONG TÍN

Quân tiền văn báo nhữ vân vong, Công nghĩa tư ân bối thích mang. Dưỡng mẫu nhi tiên quy lũng thổ, Sự quân ngã thượng tại sa trường.

Vương Khanh bất tận tình chung thán, Diên Quảng đồ tăng mệnh đoản thương. Tích nhật gia thư trưng nhữ tự,

Hàng hàng mặc tích lệ hàng hàng.

Dịch nghĩa:

NƠI BINH TRƯỜNG ĐƯỢC TIN CON LÀ THIÊN TÍNH MẤT

Trước quân nghe báo rằng con đã mất,

Việc nghĩa chung, tình riêng tư, nhói cả lưng mình.

Con nuôi dưỡng mẹ già, mà vội về lòng đất trước,

Cha thờ vua, nên còn ở mãi nơi sa trường. Vương Diễn bởi tình chung đúc, than thở không nguôi, 4

Diên Quảng mạng sống ngắn ngủi, dẫu thêm tặng vật cũng chẳng vơi nỗi đau.5


3 Nguyên chú: 八月初三日亡 (Thiên Tính mất vào ngày mồng 3 tháng 8)

4 Vương khanh, tình chung: tức Vương Diễn với câu nói về

“tình chung đúc”. Sách Thế thuyết tân ngữ có ghi chuyện Vương Diễn đưa tang đứa con nhỏ, đau buồn vô hạn, Sơn Giản đến viếng, nói: chỉ là con trẻ sao buồn đau đến thế? Ông nói: “Thánh nhân vong tình, hạ ngu bất cập tình, tình chi sở chung, chính tại ngã bối” (bậc thánh nhân quên tình, kẻ ngu muội chẳng có tình, nơi tình cảm hun đúc, chính là ở bọn ta). Ở đây Trịnh Hoài Đức muốn mượn điển này để tự nói về mình cũng có hoàn cảnh tương tự.

5 Diên Quảng: tên tự của Tử Hỗn, người đời Tấn, con của Nguỳ

Thư. Sách Tấn thư, quyển 41, phần liệt truyện Nguỵ Thư có chép: “Tử Hỗn tự Diên Quảng, là người có tài đức, làm Thái tử xá nhân, năm 27 tuổi, mất trước Thư, mọi người trong ngoài


Thư nhà ngày trước vẫn còn nét chữ của con, Nhìn mỗi dòng chữ viết, lệ rỏ từng dòng.

Dịch thơ:

Được tin con mất, giữa binh trường, Ơn nghĩa riêng chung, xóc cốt xương. Nuôi mẹ, con sao về đất trước?

Thờ vua, cha phải ở sa trường! Vương Khanh buồn khổ, tình tan hợp,

Diên Quảng thương đau, mạng yểu đường. Ngày trước, thư nhà con viết gửi,

Nhìn từng nét bút lệ cha vương.


艮齋觀光集

吏部尚書欽差嘉定城協總鎮安全侯鄭懷德甫輯

CẤN TRAI QUAN QUANG TẬP LẠI BỘ THƯỢNG THƯ KHÂM SAI GIA ĐỊNH THÀNH HIỆP TỔNG TRẤN AN TOÀN HẦU TRỊNH HOÀI ĐỨC PHỦ TẬP


壬戌年

NHÂM TUẤT NIÊN (1802)

128.

奉使大清國經廣東洋分三洲塘遇颶風三洲晴晚使帆行

昏黑何來颶母精粵海波濤林壑漲上川1風雨地天盲止將忠義持舟楫奚有顛危畏鱷鯨帝鑑梯航臣節苦應教嶽瀆護蜺旌

PHỤNG SỨ ĐẠI THANH QUỐC, KINH QUẢNG ĐÔNG DƯƠNG PHẬN TAM CHÂU ĐƯỜNG, NGỘ CỤ PHONG

Tam Châu tình vãn sứ phàm hành, Hôn hắc hà lai cụ mẫu tinh.

Việt Hải ba đào lâm hác trướng,

Thượng Xuyên phong vũ địa thiên manh. Chỉ tương trung nghĩa trì chu tiếp,

Hề hữu điên nguy úy ngạc kình.


triều đình đều lấy làm thương tiếc. Nguỳ Thư thường đau buồn, từ quan lui về mà than rằng: „Ta chẳng cao xa bằng Trang Tử, há vì chuyện vô ích mà tự làm tổn hại mình?‟ Thế rồi suốt đám tang không khóc nữa. Vua truyền chiếu rằng: “Thư chỉ có một đứa con, bạc mệnh qua đời, Thư tuổi già cáo lão, sống đơn chiếc khổ sở, thường nhớ chuyện đau lòng, vì đứa con mà than khóc. Nghĩ rằng để làm tan mối sầu mà dưỡng khí, nên tăng thêm phẩm vật. Vẫn ban cho kính đồng để nhìn bốn phía, màn trướng, một cỗ xe trâu, để vào ra dạo chơi ngóng nhìn, mong có thể làm tan nỗi sầu vậy.” Lại cho cháu là Dung để nối dõi, nhưng lại mất sớm, bèn lấy cháu là Hoảng nối dõi.”

1 Nguyên chú: địa danh.

Đế giám thê hàng thần tiết khổ, Ưng giao nhạc độc hộ nghê tinh. Dịch nghĩa:

PHỤNG SỨ SANG NƯỚC ĐẠI THANH, QUA TAM CHÂU ĐƯỜNG HẢI PHẬN QUẢNG ĐÔNG, GẶP GIÓ BÃO.

Trời chiều Tam Châu quang tạnh, thuyền sứ căng buồm đi,

Bỗng nhiên trời tối sầm, gió bão nổi lên.

Bờ biển Quảng Đông sóng trào lên cả hang núi,

Nơi bãi Thượng Xuyên gió mưa tối cả đất trời. Chỉ biết đem lòng trung nghĩa gìn giữ lèo lái, Nào vì nguy nan, sợ lũ ngạc kình.

Vua soi xét thấy thần đi sứ vất vả,

Nên khiến núi non sông nước bảo vệ cờ nghê.

2

Dịch thơ:

Tam Châu chiều lặng, sứ thuyền giong, Gió lốc từ đâu đến bão bùng.

Việt Hải sóng ngàn, trào vách núi, Thượng Xuyên mưa gió, tối bầu không. Đem lòng trung nghĩa gìn lèo lái,

Nào sợ ngạc kình ngại hiểm hung. Trời thấy thần đi đường khổ sở, Sai sông núi giữ bóng nghê cùng.


136.

珠江花艇3

一自摩尼墜賈胡湞江遊子慶僊區三春蝶夢酣花艇五夜蟾光戀海珠聲裊竹枝鬆玉佩唇彈瓜子倒銀壼千金賈笑尋常事絃管終宵逗水都

CHÂU GIANG HOA ĐĨNH

Nhất tự ma ni truỳ cổ Hồ,

Trinh giang du tử khánh tiên khu. Tam xuân điệp mộng hàm hoa đĩnh, Ngũ dạ thiềm quang luyến hải châu. Thanh niểu trúc chi tông ngọc bội, Thần đàn qua tử đảo ngân hồ.

Thiên kim cổ tiếu tầm thường sự, Huyền quản hồng tiêu đậu thuỵ đô. Dịch nghĩa:



2 Cờ nghê dịch từ nghê tinh, chỉ người đi sứ.

3 Nguyên chú: 昔胡賈墜摩尼珠于江而後珠嶼浮出因以名江

(Xưa có người Hồ đi buôn làm rơi ngọc Ma ni xuống dòng sông này, sau đó một hòn đảo ngọc nổi lên trên nước, nhân đó người ta đặt tên dòng sông này là sông ngọc).


THUYỀN HOA Ở SÔNG NGỌC

Từ khi khách buôn người Hồ làm rơi ngọc ma ni,

Người đi chơi trên sông Trinh mừng đây là vùng của tiên. 1

Suốt ba tháng xuân, say giấc điệp nơi thuyền hoa,

Đêm tối năm canh, bóng trăng sáng như luyến hòn ngọc biển.

Tiếng rít vào ống trúc, lỏng cả đai ngọc,

Môi cắn hạt dưa, bình rượu bạc nghiêng uống. Ngàn vàng đổi lấy một nụ cười là chuyện thường,2

Sáo đàn suốt đêm vẳng nơi sông nước.

Dịch thơ:

Từ độ khách Hồ để ngọc rơi, Sông Trinh du khách đến vui chơi.

Hoa thuyền giấc đắm ba xuân mộng, Ngọc biển trăng soi một tối ngời.

Ống trúc tiếng rền, đai ngọc trễ, Hạt dưa môi cắn, rượu hầu vơi. Ngàn vàng đổi tiếng cười đâu hiếm, Đàn sáo thâu đêm giữa nước trời.


143.

浙江監生陸鳳梧丐題竹白扇三枝兼索贈滿袖清風來故人

竹林終日共逡巡奉親自可供黃孝潔己何妨蔽庾塵護粉輕搖花却暑招香細拂晢流春逢時幸展施爲畧爭擬南薰解慍民

CHIẾT GIANG GIÁM SINH LỤC PHỤNG NGÔ CÁI ĐỀ TRÚC BẠCH PHIẾN TAM CHI KIÊM SÁCH TẶNG (KỲ NHẤT)

Mãn tụ thanh phong lai cố nhân,

Trúc lâm chung nhật cộng thuân tuần. Phụng thân tự khả cung Hoàng hiếu,3 Khiết kỵ hà phương tế Dữu trần.4

Hộ phấn khinh dao hoa khước thử,


1 Trinh giang: sông Trinh, ở tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc. 2 Ngàn vàng mua một nụ cười dịch từ Thiên kim cổ tiếu. Người đẹp Bao Tự không cười, Chu U Vương tìm mọi cách để nàng cười, có kẻ hiến kế đốt lửa hiệu. Vua bèn sai đốt lửa ở đài phong hoả, quân chư hầu tưởng có giặc, kéo quân đến cứu, nhưng biết bị lừa. Bao Tự thấy cảnh dáo dác của chư hầu mà tức cười. Kẻ bày kế được vua tặng cho ngàn vàng. Về sau có giặc đến thật, lại đốt lửa nhưng chư hầu không đến cứu, mất nước, U Vương bị giết ở Ly Sơn.

3 Câu này nhắc điển Hoàng Hương đêm hè quạt cho giường chiếu mát mẻ để cha mẹ nằm.

4 Chưa rõ điển, tạm dịch như trên. Có lẽ nhắc đến chuyện Văn

Vương xưa bị giam ở Dữu Lý chăng (?).

Chiêu hương tế phất triết lưu xuân. Phùng thời hạnh triển thi vi lược, Tranh nghĩ nam huân giải uấn dân.5 Dịch nghĩa:

GIÁM SINH TỈNH CHIẾT GIANG LỤC PHỤNG NGÔ XIN ĐỀ THƠ LÊN BA CHIẾC QUẠT TRẮNG VẼ TRÖC, ĐỒNG THỜI CHIA TẶNG

BÀI 1

Gió mát tràn tay áo đến thăm người bạn cũ, Trong vườn trúc, suốt ngày cùng dạo chơi. Thờ cha mẹ, tự biết có thể hết lòng hiếu như Hoàng Hương,

Làm sạch mình, đâu ngại che chắn bụi Dữu Lý.

Che làn phấn, nhẹ lay thì làm tan hết nắng nóng,

Gọi hương thơm, phất nhẹ thì thảy thành gió xuân.

Nếu gặp thời may mắn thi triển tài lược,

Cùng tranh với làn gió nam để giải nỗi sầu của dân ta.

Dịch thơ:

Gió mát tay tràn, gặp bạn thân, Suốt ngày vườn Trúc được ân cần. Thờ cha mẹ, biết dâng lòng hiếu, Giữ sạch thân, đâu ngại bụi trần. Gìn phấn, nhẹ lay, tan nóng bức, Mời hương, khẽ phất, ngạt hơi xuân. Gặp thời thi triển nên tài lược, Tranh với gió nồm xua nỗi dân.


144.

中夏清凉賴此君解人煩熱思何殷招搖風掃紅塵路披拂波翻白練裙日午畱連歡握手夜寒棲息好論文囘思寶座趨陪候常惹金爐鴨綠薰

(KỲ NHỊ)

Trung hạ thanh lương lại thử quân, Giải nhân phiền nhiệt tư hà ân.

Chiêu diêu phong tảo hồng trần lộ, Phi phất ba phiên bạch luyện quần. Nhật ngọ lưu liên hoan ác thủ,

Dạ hàn thê tức hiếu luận văn. Hồi tư bảo toạ xu bồi hậu, Thường nhạ kim lư áp lục huân. Dịch nghĩa:


5 Nam huân giải uấn dân: gió nam giải được nỗi khổ nhọc cho dân.


BÀI 2

Giữa hè muốn mát mẻ, đều phải nhờ vào ngươi,

Cái ý cởi bỏ những buồn phiền trong người ta của người sao ân cần thế?

Phe phẩy thì nổi gió quét sạch con đường đầy bụi trần,

Phất phất thì sóng cuộn trào tựa quần lụa trắng. Trưa nắng lưu luyến mãi, vui được cầm tay để quạt,

Đêm lạnh nghỉ ngơi, thích cùng bàn văn. Nhớ lại trên ghế quý được cùng tiếp khách, Nên thường nhiễm mùi khói hương xanh thơm của lò trầm.

Dịch thơ:

Giữa hè mát mẻ lại nhờ mày,

Giúp khách tan phiền, thật quý thay. Phất phất sóng chao quần lụa trắng, Phơ phơ gió quét bụi đường bay.

Trưa hè quyến luyến, cầm tay mãi, Đêm lạnh ngâm nga, được nghỉ dài. Nhớ lúc cùng ai trên ghế quý,

Hương trầm thường đượm chất thơm say.


145.

韜晦三冬跡尚沉養成體面到于今犯顏令主能容納握手斯文共唱吟君子終存高節壯仁人還愛惠風深勸渠莫避炎炎勢康濟蒼生有素心

(KỲ TAM)

Thao hối tam đông tích thượng trầm, Dưỡng thành thể diện đáo vu kim.

Phạm nhan lệnh chủ năng dung nạp, Ác thủ tư văn cộng xướng ngâm.

Quân tử chung tồn cao tiết tráng, Nhân nhân hoàn ái huệ phong thâm. Khuyến cừ mạc tỳ viêm viêm thế, Khang tế thương sinh hữu tố tâm.1 Dịch nghĩa:

BÀI 3

Ba tháng mùa đông mờ mịt, vết tích bặt tăm, Nuôi dưỡng thể diện chờ đến ngày hôm nay. Dẫu xúc phạm mặt chủ, cũng được dung nạp, Được cầm tay văn nhân, cùng xướng hoạ ngâm thơ.


1 Khang tế thương sinh: cứu giúp, vỗ yên dân chúng. Sách Thượng thư có câu: “khang tế tiểu dân” (cứu giúp và vỗ yên dân chúng).

Quân tử cuối cùng vẫn được nêu cao khí tiết hùng tráng,

Bậc nhân vẫn thích làn gió mát nồng nàn. Khuyên ngươi chớ bỏ khỏi vùng địa thế nóng nôi,

Mà nên có lòng lành giúp đỡ muôn dân.

Dịch thơ:

Mờ mịt trời đông, giấu vết im, Nuôi thành thể diện, đến khi tìm.

Phạm vô mặt chủ, riêng dung chứa, Tay nắm văn nhân, thoả xướng ngâm. Quân tử vẫn còn cao tiết tháo,

Người nhân luôn thích gió nam đằm. Khuyên ngươi chớ bỏ khi nồng nực, Giúp đỡ bao người, hãy có tâm.


146.

冬月由廣東水程往廣西省會請封使取路進京道中吟同吳黃兩副使次笠翁三十韻

南國輸誠向粵東2西甌上謁北辰宮遠經霜雪年將暮極望山川路不窮得稱意時行且止莫添足處拙求工超然造物籠牢外遺愛文恭進退風

ĐÔNG NGUYỆT DO QUẢNG ĐÔNG THUỶ TRÌNH VÃNG QUẢNG TÂY TỈNH, HỘI THỈNH PHONG SỨ THỦ LỘ TIẾN KINH, ĐẠO TRUNG NGÂM ĐỒNG NGÔ, HUỲNH LƯỠNG PHÓ SỨ THỨ LẠP ÔNG TAM THẬP VẬN3

1.

Nam quốc du thành hướng Việt Đông, 4

Tây âu thượng yết bắc thần cung. Viễn kinh sương tuyết niên tương mộ, Cực vọng sơn xuyên lộ bất cùng.

Đắc xứng ý thời hành thả chỉ,

Mạc thiêm túc xứ chuyết cầu công.5 Siêu nhiêu tạo vật lung lao ngoại, Di ái văn cung tiến thoái phong.

Dịch nghĩa:


2 Bản Trần Kinh Hoà chép tạc hướng đông.

3 Lạp Ông: tên hiệu của Lý Ngư. Lý Ngư (1611-1680) vốn tên là Tiên Lữ, tự Trích Phàm, hiệu Thiên Đồ, sau đó ông đổi tên là

Lý Ngư, tự Lạp Hồng, hiệu Lạp Ông, nhà hý khúc nổi tiếng thời cuối Minh đầu Thanh, người đất Như Cao, Giang Tô. Ông có tác phẩm Lạp Ông đối vận, là cuốn sách dùng để chọn vần làm thơ, được biên soạn dựa theo cuốn Thanh luật khải mông.

4 Việt Đông: tức Quảng Đông.

5 Câu này xuất xứ từ điển “hoạ xà thiêm túc”. Thơ Hữu cảm của Lý Thương Ẩn có câu: “Khuyến quân mạc cưỡng an xà túc,

Nhất trản phương lao bất đắc thường” (Khuyên anh chớ gượng vẽ thêm chân cho rắn, Một chén rượu thơm cũng không được nếm môi).

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/02/2023