Từ chàng đi kiếm kế làm ăn, Hương lụn đèn tàn, lạnh gối chăn.
Oanh hót, mộng tan, lòng ngán ngẫm, Liễu vương, sầu dệt, dạ băn khoăn.
Non cao, gửi nhạn, tin thư vắng, Biển thẳm, bói rùa, buổi hẹn tăng. Nghĩ hận, sum vầy dầu rỗng túi, Tim sen thiếp khỏi nhấm bao lần.
37.
冬松1
百花憔悴入窮冬山上蒼茫羨有松霜雪歲寒凋覺後葉柯時貫翠彌濃風翻雅韻來吟鶴石擁奇姿起蟄龍廊廟棟樑長九計良工捨我更何庸
ĐÔNG TÙNG
Bách hoa tiều tuỳ nhập cùng đông, Sơn thượng thương mang tiện hữu tùng. Sương tuyết tuế hàn điêu giác hậu, Diệp kha thời quán thuý di nùng.
Có thể bạn quan tâm!
- Đại Nam Thực Lục Chép Sự Kiện Này Vào Tháng 3 Năm Quý Sửu, 1793. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Tập 1, Viện Khoa Học Xã Hội
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 31
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 32
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 34
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 35
- Thương Giang 滄 江 Như Thương Giang 蒼 江: Sông Xanh.
Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.
Phong phiên nhã vận lai ngâm hạc, Thạch ủng kỳ tư khởi chập long.
Lang miếu đống lương trường cửu kế, Lương công xả ngã cánh hà dung?
Dịch nghĩa:
CỘI TÙNG MÙA ĐÔNG
Trăm hoa héo rụng cuối mùa đông, Trên hòn núi xanh, mến thay có cội tùng.
Sương tuyết cuối năm, tùng rụng lá cuối cùng,
2
Nhành lá thường vẫn giữ vẻ thắm xanh.
Gió lùa phát ra tiếng thanh tao tựa tiếng hạc ngâm,
Dáng cây kỳ lạ uốn quanh bờ đá như rồng nằm ẩn.
Rường cột của nước nhà là kế lâu dài, Thợ giỏi mà bỏ ta, càng ngu sao!
Dịch thơ:
Trăm hoa héo rụng cuối mùa đông, Trên núi cao xanh, vẫn có tùng.
Sương tuyết năm tàn, cây úa trụi,
Lá cành thường thắm, vẻ xanh trông.
Thợ lành lại bỏ, có ngu không!?
38.
鈴兒草
潛伏青林竊假名鈴兒掛號嚇雛鶯苞凋秋夜迎風響子串春枝逐雨聲佩得有因飛野馬繫來無用戲彭城當年博取嬰童樂背地驚人弄一鳴
LINH NHI THẢO
Tiềm phục thanh lâm thiết giả danh, Linh nhi quải hiệu hách sồ oanh.
Bao điêu thu dạ nghênh phong hưởng, Tử xuyến xuân chi trục vũ thanh.
Bội đắc hữu nhân phi dã mã, Hệ lai vô dụng hí Bành Thành.
Đương niên bác thủ anh đồng lạc, Bối địa kinh nhân lộng nhất minh. Dịch nghĩa:
CỎ LINH NHI (CHUÔNG)3
Trộm giả danh ẩn náu trong rừng xanh,
Đặt hiệu là Linh nhi (cái chuông), thường làm hoảng chim oanh nhỏ.
Đài hoa tàn trong đêm thu, đón gió kêu vang, Hạt xâu như cành xuân, rơi theo tiếng mưa. Có duyên thời đeo được nó như ngựa hoang, Vô dụng buộc lại đeo chỉ làm trò cười khắp Bành Thành. 4
Năm ấy lấy làm trò vui cho bọn trẻ,
Trên mặt đất vắng, kêu một tiếng khiến người ta hãi kinh. 5
39.
病中得皇黃晦山病信題寄夜深反側不成眠
支杖簾前欲問天顧影自思應骨瘦撫衾長恨爲名纒病身誰惠君臣藥債主時增母子錢知是故人同一恙
Gió lồng tiếng trỗi âm như hạc,
Đá ấp hình khoe dáng tựa rồng. Rường cột nước nhà, trường cửu kế,
1 Nguyên chú: 席中掌鬮得題并限韻 (Trong tiệc tay cầm vò rượu được đề tài, làm theo hạn vận.)
2 Dịch ý từ “giác hậu điêu” lấy ý trong câu “tuế hàn nhi hậu điêu” ý chỉ vào mùa đông, cây tùng rụng lá sau các loài cây.
3 Cỏ linh nhi: có tên khác là Hà bao mẫu đơn, vì hoa có hình dạng như cái chuông (hình trái tim) nên có tên đó. Hoa có 4 cánh, 2 tầng, bao lại như hoa sen, tạo thành hình trái tim, treo thành một dãy như chuông, mỗi cành chừng 10 cái, rũ xuống, mùa hoa nở từ tháng 4 đến tháng 6, hoa tàn thành hạt nhỏ.
4 Bành Thành: tức Từ Châu, quê hương của Hán Cao tổ Lưu Bang.
5 Câu cuối xuất từ câu “nhất minh kinh nhân” (kêu một tiếng
làm kinh hãi mọi người).
猩猩相惜舊情牽
BỆNH TRUNG ĐẮC HUỲNH HỐI SƠN BỆNH TÍN ĐỀ KÝ
Dạ thâm phản trắc bất thành miên, Chi trượng liêm tiền dục vấn thiên. Cố ảnh tự tư ưng cốt sấu,
Phủ khâm trường hận vị danh triền. Bệnh thân thuỳ huệ quân thần dược, Trái chủ thời tăng mẫu tử tiền.
Tri thị cố nhân đồng nhất dạng, Tinh tinh tương tích cựu tình khiên. Dịch nghĩa:
TRONG CƠN BỆNH ĐƯỢC TIN HUỲNH HỐI SƠN BỊ BỆNH ĐỀ THƠ GỬI
Đêm khuya, trằn trọc, ngủ không được, 1
Chống gậy đến trước rèm muốn hỏi trời. Ngoái nhìn bóng, tự thương thân gầy guộc, Vỗ chăn luôn hận, ta bị cái danh ràng buộc. Thân bệnh, ai cho ta thuốc quân thần?
Chủ nợ thường tăng thêm lãi mẹ lãi con. Biết là bạn xưa tình trạng cũng giống ta, Vướng vít thương nhau, giữ mãi tình cũ. 2 Dịch thơ:
Đêm sâu trằn trọc ngủ không yên, Chống gậy trước rèm hỏi lão thiên. Đoái bóng tự thương xương cốt guộc, Vỗ chăn thường hận cái danh phiền. Thân đau ai giúp quân thần dược, Chủ nợ luôn tăng mẫu tử tiền.
Được biết cố nhân cùng giống vậy, Tình xưa vấn vít nhớ thương thêm.
戊申年
MẬU THÂN NIÊN (1788)
41.
胡道生行役過父墓不得拜掃托余代作遠避塵氛五載中
新梅一過感何窮追思有夢雲飛白展拜無由淚染紅赴役兒孫趨火速欺人狐兔臥堂封天荒地老胡然事泉下如知亦痛恫
1 Trằn trọc dịch chữ “phản trắc” (nghiêng qua trở lại), chỉ người ngủ không được.
2 Tinh tinh tương tích 猩猩相惜: vốn là 惺惺相惜 (ngậm ngùi
thương nhau), ý nói người cùng chí hướng cùng hoàn cảnh nên thương nhau.
HỒ ĐẠO SINH HÀNH DỊCH QUÁ PHỤ MỘ BẤT ĐẮC BÁI TẢO THÁC DƯ ĐẠI TÁC
Viễn tị trần phân ngũ tải trung, Tân Mai nhất quá cảm hà cùng. Truy tư hữu mộng vân phi bạch, Triển bái vô do lệ nhiễm hồng. Phó dịch nhi tôn xu hoả tốc,
Khi nhân hồ thố ngoạ đường phong. Thiên hoang địa lão hồ nhiên sự, Tuyền hạ như tri diệc thống đồng. Dịch nghĩa:
HỒ ĐẠO SINH ĐI VIỆC QUÂN NGANG QUA MỘ CHA KHÔNG THỂ LỄ MỘ, NHỜ TÔI LÀM THAY
Xa lánh cõi trần trong năm năm,
Chợt qua Tân Mai, cảm xúc khôn cùng. Nhớ cha thường mộng, mây bay trắng núi,
Bày đồ tế lạy bất giác nước mắt nhuộm hồng khăn.
Vì việc quân, cháu con đi gấp như lửa cháy, Nhờn người, thỏ cáo nằm kín nhà.
Trời hoang đất cỗi, chuyện xa xôi, Dưới suối vàng, nếu biết cũng đau đớn. Dịch thơ:
Năm năm xa cách cõi hồng trần, Qua xứ Tân Mai cảm xúc dâng.
Thương nhớ thường mơ mây trắng núi, Chắp tay khôn nén lệ hồng khăn.
Việc quân con cháu bôn ba chạy, Nhà vắng thỏ chồn nhơ nhởn lăn. Đất cỗi trời hoang bao bấy việc, Suối vàng biết cũng dạ đau oằn.
42.
山雲限韻
觸石悠揚山上雲梢頭郁郁又紛紛出從遠岫霜初霽歸帶殘霞日正曛得路可能施雨澤無心終不伴妖氛閑蹤肯許狂風蕩留向芒碭覆聖君
SƠN VÂN
Hạn vận
Xúc thạch du dương sơn thượng vân, Sao đầu úc úc hựu phân phân.
Xuất tùng viễn tụ sương sơ tễ, Quy đới tàn hà nhật chính huân. Đắc lộ khả năng thi vũ trạch,
Vô tâm chung bất bạn yêu phân.1
Nhàn tung khẳng hứa cuồng phong đãng, Lưu hướng mang đang phú thánh quân. Dịch nghĩa:
MÂY NÚI
Mây trên núi là đà chạm vào đá, Lúc đầu hơi ngùn ngụt rồi cuồn cuộn.
Bay ra từ núi xa, khi sương bắt đầu tan,
Về mang theo ráng chiều, ánh mặt trời nắng quái.
Đắc chí thì có thể ra ơn mưa móc, Vô tâm vẫn không kết cùng với khí lạ. Dấu nhàn chịu để cuồng phong cuốn, Đợi dịp rộng che thánh quân.
庚戌年
CANH TUẤT NIÊN (1790)
53.
曾點瑟
悠然胸次獨超群 鳴志揮來暢妙文 韻迸希鏗沂水月 人閒舍作莫春雲 南風好向絃中弄 北鄙渾無柱下聞 不有知音時振鐸 狂夫誰識亦華勳
TĂNG ĐIỂM SẮT
Du nhiên hung thứ độc siêu quần, Minh chí huy lai sướng diệu văn. Vận bính hy khanh Nghi Thuỵ nguyệt, Nhân nhàn xá tác mạc xuân vân.
Nam phong hảo hướng huyền trung lộng, Bắc bỉ hồn vô trụ hạ văn.
Bất hữu tri âm thời chấn đạc,
Cuồng phu thuỳ thức diệc Hoa Huân.
Dịch nghĩa:
ĐÀN SẮT TĂNG ĐIỂM
Trong lòng riêng ôm ấp ý hơn người,
Nên khi gảy đàn thì tiếng đàn thông suốt như tỏ chí mình.
Tiếng đàn bật ra như vầng trăng nơi sông Nghi,
Người nhàn chẳng cần làm đám mây cuối xuân.
Phong tục người phương Nam, khéo lồng trong dây đàn,
Tục phương Bắc, hoàn toàn không nghe thấy ở mỗi trụ.
1 Vô tâm: ý câu “vân vô tâm nhi xuất tụ” (mây vô tâm bay ra khỏi núi) của Đào Tiềm. Yêu phân: khí mây không lành, ý chỉ hoạ loạn.
Không cần có tri âm vẫn thường so phím gảy, Kẻ cuồng ai biết cũng đều là Trùng Hoa (tên của vua Thuấn), Phóng Huân (tên của vua Nghiêu).
辛亥年
TÂN HỢI NIÊN (1791)
54.
送先鋒將軍阮文誠進征平順鎮救焚奉詔下丹墀
鯨剹將軍奉出師鞫旅霜凝蛇鳥陣凌波星耀虎熊旗一樽留戀臨歧日千里征誅掛印時錯節盤根逢利器徯蘇珍重副民思
TỐNG TIÊN PHONG TƯỚNG QUÂN NGUYỄN VĂN THÀNH TIẾN CHINH BÌNH THUẬN TRẤN
Cứu phần phụng chiếu há đan trì, Kình lục tướng quân phụng xuất sư. Cúc lữ sương ngưng xà điểu trận, Lăng ba tinh diệu hổ hùng kỳ.
Nhất tôn lưu luyến lâm kỳ nhật, Thiên lý chinh tru quải ấn thì. Thác tiết bàn căn phùng lợi khí, Hề tô trân trọng phó dân tư.
Dịch nghĩa:
TIỄN TIÊN PHONG TƯỚNG QUÂN NGUYỄN VĂN THÀNH TIẾN QUÂN ĐÁNH TRẤN BÌNH THUẬN
Ông phụng chiếu cứu binh như cứu lửa nên phải rời thềm son,
Tướng quân phụng chiếu diệt kình, dẫn quân ra trận.
Xét quân, sương đọng, dàn trận chim rắn, Lướt sóng, sao sáng, bóng cờ hùng hổ bay. Một chén rượu lưu luyến trong ngày chia tay, Ngàn dặm đi chinh phạt, khi mang ấn.
Đốt rễ cây cứng quanh co, chằng chịt, gặp phải đồ vật bén nhọn,
Mong chờ vua sáng đến, hợp với suy nghĩ của dân. 2
55.
百襇裙
百幅飄翻間色裙美人妝束耀星文
2 Mong chờ vua sáng đến dịch ý từ chữ “Hề tô”. Xuất từ câu “hề dữ hậu, hậu lai kỳ tô” (chờ đợi vua của ta đến, khiến cho dân ta được sống yên vui) trong Kinh Thư. Sau dùng chữ này để chỉ ý lòng mong chờ của dân đối với vua.
繽紛足展千花步靉靆腰纒五彩雲對鏡落霞穿泮水臨流襍錦濯河汾歸風休羨留仙製持贈昭陽服侍君
BÁCH GIẢN QUẦN
Bách bức phiêu phiên gian sắc quần, Mỷ nhân trang thúc diệu tinh văn.
Tân phân túc triển thiên hoa bộ, Ái đãi yêu triền triền ngũ thái vân. Đối kính lạc hà xuyên phán thuỵ, Lâm lưu tạp cẩm trạc hà phần.
Quy phong hưu tiện lưu tiên chế, Trì tặng chiêu dương phục thị quân. Dịch nghĩa:
VÁY XOÈ
Chiếc quần màu pha giữa trăm sắc,
Người đẹp trang điểm xong, tựa ngôi sao sáng. Theo bước chân đi, ngàn bông hoa như bung nở,
Dải lụa quấn vòng eo sặc sỡ tựa mây ngũ sắc giăng.
Soi gương, tưởng ráng chiều rơi vào trong dòng nước,
Đi vào dòng sông, như ngàn gấm lụa giặt ở bờ sông.
Ngọn gió thổi qua, chớ ngưỡng mộ mà giữ chút quần tiên,
Níu tặng chút ánh dương để hầu chàng.
56.
十錦湯
鹿鳴式讌縱壼觴案上擎來十錦湯一飲還將一啄勸五辛并與五肴香主賓滿座情兼盡山海當年味備嘗濃淡介然調爕手聽人評品隱匡牀
THẬP CẨM THANG
Lộc minh thức yến túng hồ trường, Án thượng kình lai thập cẩm thang. Nhất ẩm hoàn tương nhất trác khuyến, Ngũ tân tịnh dữ ngũ hào hương.
Chủ tân mãn toạ tình kiêm tận, Sơn hải đương niên vị bị thường. Nùng đạm giới nhiên điều tiếp thủ,
Thính nhân bình phẩm ẩn khuông sàng.
Dịch nghĩa:
CANH THẬP CẨM
Vua ban yến tiệc nên bưng chén uống thả sức,1
Trên bàn, có người mang canh thập cẩm đến. Một khi uống vào thì lại muốn ăn,
Năm vị cay hoà cùng năm mùi hương.
Khách và chủ ngồi đầy bàn, cùng giãi bày hết tình cảm,
Sơn hào hải vị năm ấy, đã từng nếm đủ.
Mặn nhạt tất cả đều nhờ vào tay người điều phối,
Nghe người ta bình phẩm, ta thì nằm ở trong giường.
壬子年
NHÂM TÝ NIÊN (1792)
59.
紅梅
紅梅爲世重晏圃可移栽香蕚胭脂抹瓊英絳雪堆妒春楊后淚帶醉趙妃腮先沐東皇澤丹心未肯灰
HỒNG MAI
Hồng mai vi thế trọng, Yến phố khả di tài.
Hương uân nhân chi mạt, Quỳnh anh giáng tuyết đôi. Đố xuân Dương hậu lệ, Đới tuý Triệu phi tai.
Tiên mộc đông hoàng trạch, Đan tâm vị khẳng hôi.
Dịch nghĩa:
MAI ĐỎ
Hồng mai được người đời xem trọng, Có thể đem trồng vào vườn tươi tốt. Mùi thơm như phấn sáp,
Chất hoa trắng như tuyết phủ.
Như giọt lệ Dương Quý phi ganh xuân, 2 Như má Triệu Phi Yến đương say. 3 Được gội ơn chúa xuân trước,
Lòng son chưa dám tàn.
1 Lấy ý từ bài thơ Lộc minh (Tiếng hươu kêu) trong Kinh Thi nói về việc tiếp đãi sứ giả. Lộc minh thí yến: tức là yến tiệc vua đãi những người đậu tiến sĩ và đãi các quan trường; khi dự yến cũng có ca bài Lộc minh xuân, chỉ kỳ thi hội mở vào mùa xuân. 2 Dương hậu: chỉ Dương Quý phi, tên là Dương Ngọc Hoàn, hiệu Thái Chân, người đẹp thông minh, giỏi ca múa, Đường Huyền Tông Minh Hoàng tuyển vào cung làm phi, phong Quý phi, là người thiếp yêu nhất của vua Đường Minh Hoàng.
3 Triệu phi: tức Triệu Phi Yến, cũng là người có nhan sắc đẹp, giỏi múa hát. Tương truyền, Phi Yến người thon thả, có thể múa
được trong lòng bàn tay.
Dịch thơ:
HỒNG MAI
Hồng mai được đời trọng, Vườn đẹp chuyển trồng ngay. Hương ngát mùi son phấn, Quỳnh anh pha tuyết dày.
Lệ như Dương hậu oán, Hồng tựa Triệu phi say. Được gội ơn xuân trước, Lòng son nào dám phai.
60.
蠟梅
馥郁蠟梅香孤山處士莊懷春身瘦瘠妒雪病焦黃麝過臍粘樹蜂飛蜜鎮房簪頭遊冶女堪贈作金妝
LẠP MAI
Phức úc lạp mai hương, Cô sơn xử sĩ trang.
Hoài xuân thân sấu tích, Đố tuyết bệnh tiều hoàng. Xạ quá tê niêm thụ,
Phong phi mật chấn phòng. Trâm đầu du dã nữ,
Kham tặng tác kim trang.
Dịch nghĩa:
MAI THÁNG CHẠP
Hoa mai tháng chạp hương thơm ngào ngạt, Là nhà của xử sĩ Cô Sơn. 1
Tiếc xuân thân mai gầy,
Ghen với tuyết nhuốm bệnh vàng. Hươu đi qua cuống hoa dính vào thân, Lũ ong bay đến hút nhuỳ.
Cô gái dạo chơi hái hoa cài đầu, Thì hoa tặng làm trang sức vàng.
61.
聽雨
胡牀支礎潤鬧夢醉還醒微溜淋鈴閣寒聲透紙屏漏巵流其滴
1 Cô Sơn xử sĩ: Xử sĩ núi Cô Sơn, tức Lâm Bô, người đất Tiền Đường, tính cách thanh đạm, không màng danh lợi, ẩn cư ở Cô Sơn, hai mươi năm trời không đặt chân đến thị thành, thường trồng mai và nuôi hạc làm vui nên người ta mới gọi là “mai thê hạc tử”.
病葉墜同聆心碎愁聞汝瀟瀟對旅亭
THÍNH VŨ
Hồ sàng chi sở nhuận,
Náo mộng tuý hoàn tinh (tỉnh). Vi lựu lâm linh các,
Hàn thanh thấu chỉ bình. Lậu chi lưu kỳ trích, Bệnh diệp truỳ đồng linh. Tâm toái sầu văn nhữ, Tiêu tiêu đối lữ đình.
Dịch nghĩa:
NGHE MƯA
Chân giường Hồ ẩm ướt, Làm ta thức giấc, say rồi tỉnh.
Tiếng mưa rơi nhẹ thấm cả gác chuông2, Hơi lạnh lọt vào tấm bình phong bằng giấy. Cùng rơi với giọt nước đồng hồ,
Với chiếc lá vàng rơi khẽ. Lòng tan nát, sầu nghe mưa, Hiu hắt trước đình khách.
Dịch thơ:
Giường Hồ hơi ẩm ướt, Giấc mộng tỉnh rồi say. Tiếng khẽ qua căn gác, Hơi hàn lọt bức mây.
Giọt đồng rơi tí tách, Lá úa khẽ khàng bay. Nghe tiếng mưa rầu rĩ, Lữ đình hiu hắt thay!
癸丑年
QUÝ SỬU NIÊN (1793)
63.
賀禮部阮洪都再娶復見容臺畫燭紅 鳳箾纔引夜融彤 依希月度霓裳曲 隱約春囘玉管中 穠艶乍看花灼灼 欹斜咲整被僮僮 耆英也識天垂眷 爲報今宵應夢熊
HẠ LỄ BỘ NGUYỄN HỒNG ĐÔ TÁI THÚ
Phục kiến dung đài hoạ chúc hồng, Phụng tiêu tài dẫn dạ dung đồng. Y hy nguyệt độ nghê thường khúc,
2 Gác chuông: dịch thẳng từ Linh các, thường dùng để chỉ hàn lâm viện, hoặc nơi làm việc của tướng soái và quan các châu phủ.
Ẩn ước xuân hồi ngọc quản trung. Nùng diễm sạ khan hoa chước chước, Y tà tiếu chỉnh bị đồng đồng.
Kỳ anh dã thức thiên thuỳ quyến, Vị báo kim tiêu ứng mộng hùng. Dịch nghĩa:
MỪNG BỘ LỄ NGUYỄN HỒNG ĐÔ LẤY TÁI THÚ
Lại được thấy nhà ông đốt nến hồng,
Sáo phụng vừa thổi, đêm hoà trong màu đỏ. Dưới ánh trăng lờ mờ ai múa khúc nghê thường, 1
Thấp thoáng mùa xuân trong khúc sáo ngọc. Vẻ mặt mặn mà, chợt nhìn biết là đoá hoa tươi tốt mơn mởn, 2
Mái tóc dài nghiêng, cười chỉnh tóc đoan trang. 3
Bậc kỳ lão cũng biết trời rũ lòng thương, Nên đêm nay báo sẽ ứng giấc mộng sinh con trai. 4
Dịch thơ:
Lại thấy nhà ông thắp nến hồng,
Đêm hoà khúc sáo phụng thanh trong.
Bóng trăng thoang thoáng, nghê thường khúc, Xuân đến lung linh, sáo ngọc lồng.
Vẻ đẹp chợt nhìn, hoa mởn mởn,
Tóc nghiêng cười chỉnh, buộc thong dong. Kỳ anh cũng biết trời thương xót,
Hẳn báo đêm nay được mộng hùng.
64.
六月喜雨題寄戰場侍從翰林諸友退却炎蒸癸丑年
油雲密布夏山巓田疇苗渥連宵雨草木春回六月天榴潄舊汙紅啟齒荷霑新寵綠輸錢遙憐單服諸文友正爲君王立馬前
1 Theo Đường thư khúc nghê thường là vũ khúc của Bà la môn truyền sang Trung Quốc. Quan Tiết độ sứ Hà Tây là Dương Kính Thuật dâng cho Đường Minh Hoàng, bèn sửa lời lại và đặt tên là Nghê thường vũ y khúc.
2 Đoá hoa tươi tốt mơn mởn dịch từ Hoa chước chước. Lấy từ ý bài Đào yêu trong Chu Nam, Kinh Thi: Đào chi yêu yêu, chước
chước kỳ hoa, chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia (cây đào xinh tươi, hoa nhiều mà rậm, nàng ấy về nhà chồng, ắt thuận hoà êm ấm).
3 Bị đồng đồng: mái tóc đoan trang, xuất từ ý bài Bị chi đồng đồng trong thơ Thiệu Nam, Kinh Thi: Bị chi đồng đồng, túc dạ
tại công, bị chi kỳ kỳ, bạc ngôn tuyền quy (đầu tóc buộc đoan trang, ngày đêm lo làm việc, đầu tóc buộc thong dong, trở về khi tế xong).
4 Mộng hùng: mơ thấy gấu, tức điềm sinh con trai. Kinh Thi có câu “Duy hùng duy bi, nam tử chi tường” (nằm mộng thấy con
hùng con bi (gấu), là điềm sinh con trai).
LỤC NGUYỆT HỈ VŨ ĐỀ KÝ CHIẾN TRƯỜNG THỊ TÕNG HÀN LÂM CHƯ HỮU
Thối khước viêm chưng Quý Sửu niên, Du vân mật bố hạ sơn điên.
Điền trù miêu ác liên tiêu vũ,
Thảo mộc xuân hồi lục nguyệt thiên. Lựu sấu cựu ô hồng khải xỉ,
Hà triêm tân sủng lục thâu tiền. Dao liên đơn phục chư văn hữu, Chính vị quân vương lập mã tiền. Dịch nghĩa:
THÁNG SÁU MỪNG TRỜI MƯA, ĐỀ THƠ GỬI CÁC BẠN HÀN LÂM THEO HẦU GIÁ Ở CHIẾN TRƯỜNG
Năm Quý Sửu, cái nóng bị đẩy lùi, 5
Mây đen dày đặc bao phủ trên núi mùa hè. Lúa mạ nơi ruộng đồng được thấm nhuận cơn mưa suốt đêm,
Cây cỏ xanh mơn như xuân về dù đang giữa tiết trời tháng sáu.
Cây lựu gội sách những vết dơ cũ, chồi đỏ mọc ra tựa răng,
Cành sen gội mưa móc, nảy lá xanh tròn như đồng tiền.
Xa thương cho các bạn văn mặc áo mỏng, Vì đang đứng trước ngựa hầu vua.
Dịch thơ:
Quý Sửu, trời oi bị đẩy nhanh, Mây đen ngùn ngụt phủ non thành.
Ruộng đồng lúa mạ đêm mưa thấm, Cây cối xuân về tháng sáu xanh.
Lựu gội vết tàn, phô hạt đỏ, Sen đằm ơn mới, nở tiền xanh.
Xa thương áo bạn toàn đơn chiếc, Trước ngựa hầu vua lạnh cũng đành.
65.
山屯答兵部右參知黎光定兼水漕寄慰俯仰相期不厚顏
照臨有日更何關屠龍窟豢原爲險棲鶻巢攀莫說難順逆好風牛異馬智仁樂處水如山內通已外心知事天縱魚鳶任往還
5 Mùa thu năm này (1793), ông được đi cùng hỗ giá Đông cung Cảnh ra trấn thành Diên Khánh thay Nguyễn Văn Thành, bài thơ này được ông làm trước đó khoảng một tháng.
SƠN ĐỒN ĐÁP BINH BỘ HỮU THAM TRI LÊ QUANG ĐỊNH KIÊM THUỶ TÀO KÝ UỶ
Phủ ngưỡng tương kỳ bất hậu nhan, Chiếu lâm hữu nhật cánh hà quan. Đồ long quật hoạn nguyên vi hiểm, Thê cốt sào phan mạc thuyết nan.
Thuận nghịch hảo phong ngưu dị mã, Trí nhân nhạo xứ thuỵ như sơn.
Nội thông dĩ ngoại tâm tri sự,
Thiên túng ngư diên nhậm vãng hoàn.
Dịch nghĩa:
NƠI ĐỒN NÚI TRẢ LỜI THƠ AN ỦI CỦA TẢ THAM TRI BINH BỘ KIÊM CHỨC THUỴ TÀO LÊ QUANG ĐỊNH
Cúi ngẩng mong nhau, mà không thẹn, Đã có mặt trời soi tỏ, thì còn ngại gì nữa.
Chuyện đào hang giết rồng, vốn nguy hiểm, Chuyện bắt tổ chim két dữ lúc đang đậu, xin chớ nói khó khăn.
Gió thổi xuôi ngược, trâu khác ngựa,
Chỗ vui của bậc nhân và trí, sông nước cũng như núi non. 1
Trong ngoài đã thông hiểu, lòng tự nhiên sẽ rõ, Trời bao la, chim cá cứ mặc tình lại qua.
Dịch thơ:
Cúi ngửa trông mong chẳng thẹn gì, Gặp nhau có lúc cũng hề chi.
Giết rồng phá ổ, âu là hiểm, Bắt két trên cành, chớ kể nguy.
Trâu ngựa ngược xui khi trái gió, Nước non nhân trí vẫn vui vì.
Trong ngoài thông suốt, nên lòng biết, Chim cá mặc tình giữa cõi ni.
甲寅年
GIÁP DẦN NIÊN (1794)
66.
和北河鄧陳常投南自叙原韻2河北賢才豈乏人
如卿意氣義爲親國讐不逐寒暄改臣節何勞跋涉頻祖狄襟期清晉宇武侯利鈍付天鈞
遭逢莫袖經綸手自古英雄貴得君
HOẠ BẮC HÀ ĐẶNG TRẦN THƯỜNG ĐẦU NAM TỰ TỰ NGUYÊN VẬN
Hà Bắc hiền tài khởi phạp nhân? Như khanh ý khí nghĩa vi thân. Quốc thù bất trục hàn huyên cải, Thần tiết hà lao bạt thiệp tần.
Tổ Địch khâm kỳ thanh Tấn vũ, Vũ Hầu lợi độn phó Thiên quân. Tao phùng mạc tụ kinh luân thủ, Tự cổ anh hùng quý đắc quân.
Dịch nghĩa:
HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI TỰ THUẬT VỀ CHUYỆN VÀO NAM CỦA ĐẶNG TRẦN THƯỜNG NGƯỜI BẮC HÀ
Đất Bắc Hà, đâu có thiếu người hiền tài, Ý khí như anh, lấy nghĩa làm thân.
Thù nước chẳng đổi theo mùa nóng lạnh, Tiết tháo bầy tôi ngại gì nhọc nhằn bôn ba. Tổ Địch áo cờ quét tàn giặc thù nơi đất Tấn, 3
Vũ Hầu kế mưu sắc sảo đành phó mặc trời cao.4
Gặp gỡ nhau xin chớ khoanh tay giấu tài kinh luân,
Xưa nay anh hùng quý ở việc gặp được minh quân.
Dịch thơ:
Hiền tài Hà Bắc, thiếu ai chăng? Ý khí như anh, nghĩa sát thân.
Thù nước chẳng theo mùa đắp đổi, Lòng tôi sá kể cuộc phong trần.
Áo cờ Tổ Địch, trong trời Tấn,
Mưu diệu Khổng Minh, phó cõi thần. Gặp gỡ, kinh luân tài chớ giấu,
Anh hùng xưa quý gặp minh quân.
67.
歸仁府兵場同兵步部右參知黎光定分路回嘉定城
我于客歲扈皇儲卿復今年侍帝輿延慶戍邊嗟別袂歸仁平寇恰連裾鬚眉已逐逢時易
1 Câu này xuất từ ý câu trong Luận ngữ: “nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỵ” (người nhân vui cảnh núi, người trí vui cảnh nước), ở đây Trịnh Hoài Đức muốn nói chỗ vui vẻ của người nhân hay người trí đều giống nhau không khác.
2 Nguyên chú: 時鄧於北河起兵與西山賊拒戰屢被敗衂竟圖南奔又爲山海所阻今始得達 (Bấy giờ họ Đặng ở Bắc Hà khởi
binh chống trả với quân Tây Sơn, nhiều lần thua trận cùng đường mới chạy vào Nam, nhưng lại bị núi sông cách trở, nay mới đến được.)
3 Tổ Địch: người đất Phạm Dương, đời Tấn, tự Sĩ Nhã, thời Nguyên đế, làm thứ sử Dự Châu, lúc vượt sông gõ chèo thề rằng: không lấy được Trung Nguyên thề không trở lại sông này. Bộ binh đánh nhau cầm cự với quân Thạch Lặc, từ sông Hoàng Hà trở xuống phía nam đều là đất thuộc nhà Tấn. Ngày ông mất, quan quân Dự Châu để tang ông như bậc cha mẹ.
4 Vũ Hầu: tức Gia Cát Lượng, hiệu Khổng Minh, còn có hiệu
Ngoạ Long tiên sinh. Ông giúp Lưu Bị chia thiên hạ thành thế chân vạc, là người mưu lược tài tình, sau khi mất được phong là Vũ Hương Hầu.
心志猶期舊日如從此故鄉同笑指卿舟我馬詠歸歟
QUY NHƠN PHỦ BINH TRƯỜNG ĐỒNG BINH BỘ HỮU THAM TRI LÊ QUANG ĐỊNH PHÂN LỘ HỒI GIA ĐỊNH THÀNH
Ngã vu khách tuế hỗ hoàng trừ, Khanh phục kim niên thị đế dư. Diên Khánh thú biên ta biệt duệ, Quy Nhơn bình khấu cáp liên cư. Tu my dĩ trục phùng thời dị, Tâm chí do kỳ cựu nhật như.
Tòng thử cố hương đồng tiếu chỉ, Khanh chu ngã mã vịnh quy dư! Dịch nghĩa:
Ở BÌNH TRƯỜNG PHỦ QUY NHƠN CÙNG HỮU THAM TRI BINH BỘ LÊ QUANG ĐỊNH CHIA NGÃ VỀ THÀNH GIA ĐỊNH
Vào năm trước tôi theo hầu giá hoàng thái tử, Còn anh năm nay lại theo hầu xa giá nhà vua. Quân dịch ở Diên Khánh, thở than nỗi chia xa (dứt tay áo),
Đánh giặc ở Quy Nhơn, may thay lại gặp nhau (liền vạt áo).
Đã theo kiếp nam nhi, gặp thời thì nên việc lớn,
Tâm chí vẫn mong, giống như ngày xưa. Từ đây, ta cùng chỉ về quê hương vui cười, Anh đi thuyền, tôi đi ngựa, ca ngâm trở về. Dịch thơ:
Năm trước tôi hầu Thái tử ra, Bác nay hầu giá Đức vua qua.
Quy Nhơn bình loạn, may mừng gặp, Diên Khánh vây đồn, rủi cách xa.
Tâm chí hằng mong như thuở trước, Mày râu sẵn kiếp dễ xông pha.
Cùng cười chỉ chốn quê hương đó, Tôi bác ngựa thuyền, cất tiếng ca.
68.
題兵部右參知敏政侯黎光定歸仁俯地圖制梃人皆撻獨夫
歸仁何事貯狂逋闍磐石叠山藏疾施耐彎涵水納汙盜賊且休誇地險君王不忍以城屠他年會議中興策敵勢分明在畫圖1
ĐỀ BINH BỘ HỮU THAM TRI MẪN CHÍNH HẦU LÊ QUANG ĐỊNH QUY NHƠN PHỦ ĐỊA ĐỒ
Chế đĩnh nhân giai thát độc phu, Quy Nhơn hà sự trữ cuồng bô. Đồ Bàn thạch điệp sơn tàng tật, Thi Nại loan hàm thuỵ nạp ô.
Đạo tặc thả hưu khoa địa hiểm, Quân vương bất nhẫn dĩ thành đồ. Tha niên hội nghị trung hưng sách, Địch thế phân minh tại hoạ đồ.
Dịch nghĩa:
ĐỀ THƠ VÀO ĐỊA ĐỒ PHỦ QUY NHƠN CỦA BINH BỘ HỮU THAM TRI MẪN CHÍNH HẦU LÊ QUANG ĐỊNH
Chế gậy gộc mọi người đều đánh kẻ giặc, Thành Quy Nhơn cớ sao dung chứa bọn cuồng loạn.
Thành Đồ Bàn đá ngổn ngang, núi như giấu tật,
Cửa biển Thị Nại gấp khúc, nước đen ngòm dường chứa bẩn.
Kẻ giặc chớ khoe rằng nơi đây hiểm trở, (Chẳng qua) nhà vua không nỡ tàn phá cả thành.
Năm nào trong bàn hội nghị dâng kế sách trung hưng,
Thế giặc hiện ra rõ ràng ở bức vẽ.
Dịch thơ:
Quyết đánh độc phu, chế gậy gồng, Quy Nhơn sao chứa kẻ cuồng ngông? Đồ Bàn lởm chởm, non mài đá,
Thi Nại quanh co, nước đục dòng. Bọn giặc đừng khoe, nhờ đất hiểm, Nhà vua chẳng nỡ, đốt thành không. Năm nào dâng kế trung hưng sách, Thế giặc hình này hiện rõ trong.
69.
西施菊
綽約東籬整淡粧苧蘿村廢尚遺香步風響屧裁纖蕊笑月傾城趁晚涼嬌憶姑蘓秋作沼瘦憐彭澤夜凝霜昨來叢下瀟瀟雨回首吳宮淚滿裳
TÂY THI CÚC 2
Xước ước đông ly chỉnh đạm trang,
1 Nguyên chú: 歸仁城係古闍磐城爲占城故址 Thành Quy Nhơn thuộc thành Đồ Bàn xưa, là nền cũ của nước Chiêm Thành.
2 Tây Thi: tên một cô gái nước Việt thời Xuân Thu, có sắc đẹp, là người được Việt Vương Câu Tiễn tiến công cho Ngô Vương Phù Sai, sau Câu Tiễn diệt nước Ngô.