Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 34


Trữ la thôn phế thượng di hương. Bộ phong hưởng tiệp tài tiêm nhị,

Tiếu nguyệt khuynh thành sấn vãn lương. Kiều ức Cô Tô thu tác chiểu,

Sấu liên Bành Trạch dạ ngưng sương. Tạc lai tùng hạ tiêu tiêu vũ,

Hồi thủ Ngô cung lệ mãn thường.

Dịch nghĩa:

CÚC TÂY THI

Bên rào đông tha thướt vẻ đẹp thanh đạm,

Cỏ nanh trắng um tùm trong ngôi làng hoang, mà cúc còn phảng phất chút hương.

Nhị hoa nhỏ nhắn rung trong gió, tựa tiếng guốc ai vang,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Khoe sắc dưới trăng trong chiều thu muộn, tựa nụ cười làm nghiêng cả thành trì.

Ao hồ nhuốm hơi thu, dáng hoa đằm như cô gái nhớ thành Cô Tô,

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 34

Trong đêm dày sương, dáng cúc gầy gò tựa thương người nơi Bành Trạch.

Đêm qua dưới khóm hoa mưa rơi xào xạc,

Ngỡ như ai ngoảnh đầu nhìn lại cung vua Ngô, lệ rơi ướt cả áo.

Dịch thơ:

Tha thướt rào đông, vẻ nhạt vàng, Làng hoang cỏ lấn, vẫn đưa hương. Nhị rung trước gió, như ai bước, Cánh nở trong thu, tựa nguyệt hường. Dáng nhớ Cô Tô, ao trướng nước,

Sầu thương Bành Trạch, tối tràn sương. Đêm qua dưới khóm mưa xào xạc,

Ngỡ biệt cung Ngô, rỏ lệ thương.

乙卯年

ẤT MÃO NIÊN (1795)

71.

倒掛鳥

莫謂樊籠累德輝遑知么鳳愛文翬晴翻花底懸丹爪1午晒枝頭反翠衣臥看雲霄修羽翼夢迴台斗探璿璣饒他鴝鵒驕言語剪舌要人粟豆肥

ĐẢO QUẢI ĐIỂU 2

Mạc vị phiền lung luỳ đức huy, Hoàng tri yêu phụng ái văn huy.

Tình phiên hoa để huyền đan trảo, Ngọ sái chi đầu phản thuý y.

Ngoạ khán vân tiêu tu vũ dực, Mộng hồi thai đẩu thám tuyền ky. Nhiêu tha cù dục kiêu ngôn ngứ, Tiễn thiệt yêu nhân túc đậu phì. Dịch nghĩa:

CHIM ĐẢO QUẢI

Chớ bảo rằng trong lồng làm luỳ cái đức sáng, Loài chim phụng vẫn thường thích bộ lông đẹp.

Khi trời quang tạnh, bay dưới hoa, co móng chân đỏ,

Buổi trưa phơi nắng trên cành cây, trở lớp áo xanh.

Nằm nhìn trời mây, sửa sang rỉa lại bộ cánh, Mơ về phương bắc, lên thăm những vì sao xanh. 3

Mặc kệ con chim sáo khoe khoang là biết nói, Cắt lưỡi chỉ vì muốn người ta cho ăn để béo thôi.

Dịch thơ:

Chớ bảo cũi lồng mất ánh quang,

Đời hay chim phụng thích trang hoàng. Dưới hoa bay lộn, treo chân đỏ,

Trên ngọn, nắng phơi, trở áo choàng. Nằm ngắm trời mây, tung cánh sửa, Mơ về cõi bắc, kiếm sao sang.

Mặc tình con sáo khoe hay nói, Cắt lưỡi vì cần béo tấm thân.


72.

過山魚 4

江湖浪跡逐鯸鮐雨澤偏多興致催越嶺爲逃頳尾政食田既慰逆鱗才漦遺不産王家孼骨鯁長爲水國推似爾山川經苦節天門何日化龍囘

QUÁ SƠN NGƯ

Tục danh cá rô

Giang hồ lãng tích trục hầu thai, Vũ trạch thiên đa hứng trí thôi. Việt lĩnh vi đào trinh vĩ chính, Thực điền ký uỵ nghịch lân tài. Ly di bất sản vương gia nghiệt,

Cốt ngạnh trường vi thuỵ quốc suy.



1 Bản Trần Kinh Hoà chép nhầm thành chữ “qua”

2 Đảo quải: tên một loài chim nhỏ, sinh sản ở vùng Quảng Tây,

lông xanh mỏ đỏ, rất giống với chim anh vũ (vẹt) nhưng nhỏ hơn, biết hót, tính thích bay nhào lộn, người ta thường cho đồ ăn.


3 Tuyền ky: một loại ngọc xanh, ở đây có ý chỉ những ngôi sao, vì “tuyền ky ngọc hoành” người Trung Quốc chỉ bảy ngôi sao Bắc Đẩu.

4 Nguyên chú: 俗名魚个魚芻 (tục gọi là cá rô.)


Tự nhĩ sơn xuyên kinh khổ tiết, Thiên môn hà nhật hoá long hồi. Dịch nghĩa:

CÁ RÔ

Nơi sóng nước sông hồ đuổi theo cá nược, Thường được ơn mưa, nên hứng trí thường thúc giục.

Trốn nơi núi Việt, đuôi đỏ vì gánh vác nền chính, 1

Được ban ruộng làm thực điền để an ủi tài can ngăn thẳng thắn. 2

Nước dãi không sản sinh nỗi nghiệt của nhà vua,

Xương cứng thẳng (người ngay thẳng) dài được suy tôn nơi thuỵ quốc.

Ta cũng như ngươi có nỗi khổ vượt sông núi, Nơi cửa trời biết bao giờ mới hoá rồng quay trở về.


73.

七夕雨

放牧投韉擲玉梭雙雙牛女渡銀河鵲橋迢遞聯靈匹巫雨猖狂濕素羅繾綣自憐嬌少舊滂沱如泣別離多無稽人世忙求巧不道天孫此夜何

THẤT TỊCH VŨ

Phóng mục đầu tiên trịch ngọc thoa, Song song ngưu nữ độ ngân hà.

Thước kiều điều đệ liên linh thất, Vu vũ xương cuồng thấp tố la.

Khiển quyển tự liên kiều thiếu cựu, Bàng đà như khấp biệt li đa.

Vô kê nhân thế mang cầu xảo, Bất đạo thiên tôn thử dạ hà.

Dịch nghĩa:

MƯA ĐÊM MỒNG BẢY THÁNG BẢY

Bỏ việc chăn trâu, vứt cả thoi ngọc,

Ngưu lang Chức nữ cùng vượt sông Ngân. Cầu quạ xa xa nối liền đôi tiên, 3

Mưa non Vu lã chã ướt màn lụa trắng. 4

Quyến luyến tự thương cho người con gái trẻ lâu ngày không gặp,

Mưa tầm tã như khóc vì nỗi xa cách lâu ngày. Người đời sá kể bận việc cúng tế cầu được khéo tay, 5

Chẳng biết đến người cháu trời đêm ấy thế nào.

Dịch thơ:

MƯA ĐÊM MỒNG BẢY THÁNG BẢY

Bỏ cả roi trâu, bỏ ngọc thoi,

Chàng Ngưu ả Chức vượt sông trời. Xa xa cầu quạ, tơ thiêng dệt,

Lất phất mưa tiên, lụa ướt ngời. Quyến luyến thương tình cô gái trẻ, Sụt sùi tựa khóc nỗi chia phôi.

Người đời sá kể, lo cầu khéo, Chẳng biết ai kia dạ rối bời.

丙辰年

BÍNH THÌN NIÊN (1796)

74.

哭鄧九思先生6子美生平累坎軻有才無命奈之何泉臺壇築登文伯氊座風吹泣酒魔章疏已酬當世望詩書曾正後人訛歸山不盡情中曲夜夜墳前起怒波

KHỐC ĐẶNG CỬU TƯ TIÊN SINH

Tử Mỷ sinh bình luỳ khảm kha, Hữu tài vô mệnh nại chi hà?

Tuyền đài đàn trúc đăng văn bá, Chiên toạ phong xuy khấp tửu ma. Chương sớ dĩ thù đương thế vọng, Thi thư tằng chính hậu nhân ngoa. Quy sơn bất tận tình trung khúc, Dạ dạ phần tiền khởi nộ ba!

Dịch nghĩa:

Sinh bình Tử Mỷ nhiều phen trắc trở, 7

Có tài nhưng không có mệnh, biết làm thế nào?



1 Trinh vĩ: đuôi đỏ, xuất từ thơ Nhữ phần, chương Thiệu Nam, trong Kinh Thi: Phương hầu trinh vĩ, vương thất như huỵ” “魴魚頳尾,王室如燬。” (Cá phương đỏ đuôi, vương thất sắp

cháy) (Chu Hy chú: đuôi cá phương vốn màu trắng nay chuyển sang đỏ, tức lao khổ lắm vậy). Về sau dùng điển này để nói về người vì mệt nhọc lao khổ quá độ vì gánh vác nhiều trọng vụ).

2 Nghịch lân: vảy ngược dưới cổ rồng. Nghịch lân tài: ý nói người có tài can ngăn thẳng thắn, không sợ chạm vào cái vảy ngược của con rồng.

3 Thước kiều: cầu Ô Thước, hay còn gọi là cầu Quạ, tục truyền đến ngày mồng 7 tháng 7, quạ bắc cầu cho Ngưu Lang và Chức

Nữ gặp nhau, nên ngày này quạ bị hói trắng lông đầu.

4 Vu vũ: mưa non Vu, chỉ chuyện ái ân, mây mưa.

5 Cầu xảo: cầu khéo tay, ngày mồng bảy tháng bảy, các cô gái tranh nhau xỏ chỉ để cầu khéo tay. Người ta đặt mâm trái cây,

cùng kim chỉ, cho nhện giăng tơ, nếu nhện giăng thì được.

6 Nguyên chú: 中興初先生上中與十策詔擢內閣學士與當路忤退作歸山十詠以詩酒自娛卒墓葬臨平順鎮城海岸 Đầu

năm Trung Hưng, tiên sinh dâng sớ Thập sách (Mười kế sách), bỏ chức Nội các Học sĩ và bất chấp lui về, tiên sinh có làm Quy sơn thập vịnh, lấy việc làm thơ uống rượu tự vui. Khi ông mất, mộ táng ở bờ biển trước thành trấn Bình Thuận.

7 Tử Mỷ: tên tự của Đỗ Phủ, nhà thơ nổi tiếng thời Đường, hiệu là Thi sử.


Dưới suối vàng, lập đàn, tiên sinh lên hàng văn bá,

Trong chỗ tiệc ngồi, gió rít, khiến bọn ma rượu khóc than.

Chương sớ của tiên sinh đã làm thoả được sự ngóng trông của người đời,

Thi thư của tiên sinh từng đính chính chỗ sai lầm của người đời sau.

Tình ý trong khúc Quy sơn vẫn còn chẳng hết, Đêm đêm, trước mộ phần của tiên sinh, biển nổi sóng cuộn trào!

Dịch thơ:

Tử Mỹ cuộc đời trắc trở chao! Có tài không mệnh, biết làm sao. Suối vàng, văn bá lên đàn thẳm, Yến tiệc, tửu ma khóc gió rào.

Chương sớ hợp lòng dân ngóng đợi, Thi thư sửa chỗ lỗi lầm sau.

Quy Sơn một khúc tình chưa dứt, Trước mộ đêm đêm sóng cuộn trào.


77.

湘妃竹

蒼梧無夢續重熙湘竹琳琅二女悲有淚自能興感慨虛心終亦灑相思斑痕帶雨臨三楚個字題風奏九嶷爲語簫人休濫剪德輝斯引鳳來儀

TƯƠNG PHI TRÖC

Thương Ngô vô mộng tục trùng hy, Tương trúc lâm lang nhị nữ bi.

Hữu lệ tự năng hưng cảm khái, Hư tâm chung diệc sái tương tư. Ban ngân đới vũ lâm Tam Sở, Cá tự đề phong tấu Cửu Nghi. Vị ngữ tiêu nhân hưu lạm tiễn, Đức huy tư dẫn phụng lai nghi. Dịch nghĩa:

TRÖC TƯƠNG PHI

Thương Ngô không còn mộng nối tiếp đời thịnh trị,

Khóm trúc sông Tương như ngọc lang, đã thấm nỗi sầu của hai nàng. 1

Người có lệ hẳn có thể dâng nỗi cảm khái, Trúc vô tâm cuối cùng cũng rỏ lệ nhớ thương.


1Hai nàng: tức chỉ Nga Hoàng và Nữ Anh, con vua Nghiêu, vợ của vua Thuấn. Vua Thuấn tuần thú phương Nam. Đến núi Cửu Nghi, đồng Thương Ngô thì mất. Hai người vợ vua đi tìm, khóc nơi sông Tương, nước mắt vấy vào trúc nơi đó thành đốm. Sau cùng nhả xuống sông Tương tự trầm, hoá thành thần nữ sông Tương, đêm đêm thường hiện lên gảy đàn sắt.

Vết lệ theo mưa bay vào nước Sở,

Từng chữ bay theo gió đến tâu ở núi Cửu Nghi.

Nhắn với người làm sáo, xin chớ cắt trúc này, Đức độ sáng chói thì dẫn được phụng hoàng đến thôi.

Dịch thơ:

Thương Ngô tàn mộng nối đời sau, Trúc bến Tương theo Nhị Nữ sầu. Có lệ đã đành dâng cảm khái,

Vô tâm mà cũng rỏ niềm đau. Cửu Nghi, gió tấu bao hàng chữ, Tam Sở, mưa đưa nhưng vết rầu. Tạo sáo ai người, xin chớ cắt,

Lòng thành trổi tiếng, phụng về mau.


78.

閨情

知君志氣欲龍攀爭奈沙場倍險難羽檄勤邀詢驛信鏡臺嬾對整花顏嚬將秋柳眉同蹙啼向春篁淚共斑暗祝軍前無血刃王師及早定西山

KHUÊ TÌNH

Tri quân chí khí dục long phan, Tranh nại sa trường bội hiểm nan. Vũ hịch cần yêu tuân dịch tín, Kính đài lãn đối chỉnh hoa nhan. Tần tương thu liễu my đồng xúc, Đề hướng xuân hoàng lệ cộng ban. Ám chúc quân tiền vô huyết nhận, Vương sư cập tảo định Tây sơn.

Dịch nghĩa:

KHUÊ TÌNH

Biết chí khí của chàng muốn tìm kiếm công danh, 2

Nên chẳng ngại ra sa trường nguy hiểm bội lần.

Khiến thiếp thường biên thư hỏi thăm tin tức chiến trận,

Mà biếng chuyện soi gương trang điểm dung nhan.

Nét mày thường cau như hình chiếc lá liễu mùa thu,

Vết lệ khóc thấm mặt tựa ngấn trúc đốm vàng ngày xuân.


2 Tìm công danh dịch từ Long phan: xuất từ câu “phan long lân, phụ phụng dực” (vin vảy rồng, nhờ cánh phụng) trong sách Pháp ngôn của Dương Hùng đời Hán. Sau chuyển thành thành ngữ “phụng phụ long phan” để chỉ những người nương cậy vào vua chúa và người quyền quý để lập công danh.


Thầm chúc trước đoàn quân chàng đừng bị thương tích,

Quân nhà vua sẽ sớm định được Tây Sơn.

Dịch thơ:

Biết chàng chí khí, kiếm công danh, Lặn lội sa trường, chẳng kể nan, Thư viết thường thăm tin chiến trận, Gương soi biếng nhác vẻ hoa nhan. Mày cau dường liễu pha màu thắm, Ngấn lệ như tre đốm sắc vàng.

Thầm chúc trận tiền, không vết tích, Quân sư sớm định giặc Tây Sơn.

戊午年

MẬU NGỌ NIÊN (1798)

109.

張良

六國邱墟一士憂千金輕爲重韓仇錐揮博浪無秦鹿劍返褒中失楚猴群力馳驅帷下策廼翁成敗箸前籌惡聞惡雉鳴西雒松子追隨世外遊

TRƯƠNG LƯƠNG

Lục quốc khâu khư nhất sĩ ưu, Thiên kim khinh vị trọng Hàn cừu. Chuỳ huy Bác Lãng vô Tần lộc, Kiếm phản Bao Trung thất Sở hầu. Quần lực trì khu duy hạ sách,

Nãi ông thành bại trợ tiền trù. Ô văn ác trĩ minh Tây Lạc, Tùng Tử truy tuỳ thế ngoại du. Dịch nghĩa:

TRƯƠNG LƯƠNG

Sáu nước biến thành gò hoang, có một kẻ sĩ lo lắng,

Ngàn vàng coi khinh, chỉ xem trọng trả mối thù của nước Hàn. 1

Ở Bác Lãng vung chuỳ, làm mất hươu Tần (giang sơn nhà Tần), 2

Chốn Bao Trung trở kiếm, làm mất vượn Sở (vạ lây nước Hàn). 3

Ba quân rong ruổi đều theo sách lược dưới trướng của ông,

Việc thành bại của Bái Công, có thể dự tính trước bàn tiệc.

Ghét nghe tiếng chim trĩ ác kêu ở Tây Lạc, Nên theo chân Tùng Tử dạo chơi ngoài cõi đời. 4

Dịch thơ:

Sáu nước gò hoang, kẻ sĩ sầu, Ngàn vàng coi nhẹ, trọng thù sâu.

Chuỳ khua Bác Lãng, hươu Tần mất, Kiếm trở Bao Trung, vượn Sở đâu. Binh lính ruổi rong, mưu dưới trướng, Lão ông thành bại, chước trong đầu. Chán nghe trĩ ác ồn Tây Lạc,

Tùng Tử theo người học phép tu.


110.

其二

痛癢并吞建亥年自投章甫事龍泉群雄甲馬喧椎下六國兒孫泣箸前晚矣假王嗟盡鳥鄙哉丞相苦汙田圮書未必全三略黃老心傳屬後篇

KỲ NHỊ

Thống dưỡng tính thôn kiến hợi niên, Tự đầu chương phủ sự Long Tuyền. Quần hùng giáp mã huyên truỳ hạ, Lục quốc nhi tôn khấp trợ tiền.

Vãn hĩ giả vương ta tận điểu, Bỉ tai thừa tướng khổ ô điền. Bĩ thư vị tất toàn tam lược,

Hoàng Lão tâm truyền chúc hậu thiên.

Dịch nghĩa:

BÀI 2

Đau đớn khi các nước bị thôn tính,


1 Mối thù nước Hàn: Trương Lương vốn người nước Hàn, nước Hàn bị Tần diệt, Trương Lương quyết ý trả thù đền nợ nước, về sau theo Hán Lưu Bang, làm quân sư cho Lưu Bang diệt Tần.

2 Bác Lãng: Nơi Trương Lương cùng người lực sĩ cầm chuỳ

nặng trăm cân thích khách Tần Thuỵ Hoàng nhưng đánh nhầm vào xe tuỳ tùng, việc không thành Trương Lương phải bỏ trốn. Sau theo Hán Cao Tổ diệt Tần. Tần lộc: hươu Tần, chỉ thiên hạ nhà Tần. Theo lời chú của Trình Đại Xương trong sách Tục diễn phồn lộ thì hươu tượng trưng cho thiên hạ, mà kẻ tranh bá đồ vương tranh nhau săn đuổi. Chúng tôi xét thấy, khi Tần Nhị Thế lên ngôi, Triệu Cao chuyên quyền, bèn cho người dắt con hươu đến trước nhà vua nói là con ngựa, có người sợ Cao thì nói hươu, có người thì nói ngựa. Cao để ý giết hết những người


nói ngựa đi. Thiên hạ nhà Tần từ đó năm trong tay của Triệu Cao, nên mới có chuyện hươu Tần là vậy.

3 Bao Trung: vùng đất Bao Trung, nơi Trương Lương tiễn chân

Bái Công vào đất Ba Thục, sau quay về nước Hàn, nhưng vì Lương từng theo Bái Công nên Hạng Vũ không muốn dùng Hàn vương Thành làm vương mà cho làm hầu, rồi sau giết đi, nước Hàn bị diệt hẳn. Sở hầu: vượn Sở. Xuất từ câu “Sở quốc vong viên, hoạ diên lâm mộc” (nước Sở mất con vượn, mà hoạ lây đến cả rừng), ý nói vì muốn tìm một con vượn mà chặt hết cả rừng cây, câu này có ý nói bị vạ lây.

4 Tùng Tử: tức Xích Tùng Tử. Tương truyền sau khi Lưu Bang lên ngôi nhà Hán, Trương Lương từ quan thoái ẩn, đi tu tiên với

Xích Tùng Tử. Nhưng Sử ký chép, ông chết, người ta đem chôn cùng viên đá vàng (Hoàng Thạch công người đã đưa quyển sách cho ông) mà ông gặp được ở bờ bắc sông Tế.


Tự mình đầu quân làm đại phu thờ Long Tuyền. 1

Binh ngựa quần hùng xôn xao dưới mũi chuỳ. Con cháu sáu nước khóc than trước bàn ăn.

Muộn rồi, giả vương than chim hết, 2 Kém thay, thừa tướng khổ ở ruộng lầy. 3 Sách cũ chưa hẳn vẹn toàn ba mưu lược,

Tâm truyền của Hoàng Lão còn nằm ở chương sau. 4

Dịch thơ:

Đau đớn nước Hàn bị diệt vong,

Đem thân theo đến Kiếm thành Phong. Con em sáu nước, đau lòng khóc,

Binh mã quần hùng, hoảng dạ trông. Thừa tướng, tệ thay, cam ruộng xấu, Giả vương, muộn lắm, oán chim cùng. Sách xưa chưa hẳn ba thiên đủ, Hoàng Lão tâm truyền hẳn chửa xong.


111.

韓信

罷釣英雄尚擇君豈容坐視海翻塵劔揮秦楚風腥血釣索侯王印繫綸推食只知龍可擾捫心無奈雉難馴教猱莫咎刀錐相逞古功高幾老臣

HÀN TÍN

Bãi điếu anh hùng thượng trạch quân, Khởi dung toạ thị hải phiên trần.

Kiếm huy Tần Sở phong tinh huyết, Điếu sách hầu vương ấn hệ luân.

Thôi thực chỉ tri long khả nhiễu,


1 Long Tuyền: tên thanh gươm báu, còn gọi là Long Uyên. Sách Tấn thư chép: Trương Hoa xem thiên văn thấy có khí tím sáng chói giữa khoảng sao Đẩu, bèn hỏi Lôi Hoán, Hoán bảo đó là khí gươm báu bốc lên, bèn cho người đi tìm. Tìm đến huyện Phong, đào ở nơi nhà ngục được hai thanh kiếm là Long Tuyền và Thái A. Ở đây chỉ Hán Cao Tổ Lưu Bang, vì Lưu Bang người ấp Phong, lấy thiên hạ bằng ba thước kiếm. Kiếm Long Tuyền cũng ở đất Phong, nên mượn chỉ.

2 Câu này xuất từ ý câu “điểu tận cung tàng” (hết chim giấu tên),

chỉ sự bạc bẽo. Câu xuất từ ý câu nói của Hàn Tín khi làm giả vương ở Tề, bị Hán Cao Tổ theo kế Trần Bình, hội quân ở đầm Vân Mộng, Tín đến, bị bắt, từng nói: “quả nhược nhân ngôn:

„giảo thố tử, lương cẩu phanh, cao điểu tận, lương cung tàng, địch quốc phá, mưu thần vong‟, ngã cố đương phanh” (quả như lời người ta nói: thỏ ranh chết, chó giỏi bị giết, chim trên cao hết, cất cung tên, nước địch phá xong, giết mưu thần, ta vì vậy đáng bị giết). Sau được tha, cho làm Hoài Âm hầu, rồi cùng Trần Hy làm phản không thành, bị Lữ Hậu theo kế Tiêu Hà bắt giết, hối hận vì không nghe lời mưu sĩ Khoái Thông người Tề.

3 Câu này hẳn nói đến chuyện Trương Lương không chịu nhận ba vạn hộ ở nước Tề, mà chỉ xin được phong hầu ở đất Lưu.

4 Hoàng lão: tức Hoàng Thạch Công, người đã bảo Trương Lương nhặt giày mang cho ông và mấy lần hẹn gặp vào sáng

sớm, rồi đưa sách Thái công binh pháp cho Trương Lương học.

Môn tâm vô nại trĩ nan tuần.

Giao nhu mạc cữu đao chuỳ tướng, Sính cổ công cao kỵ lão thần.

Dịch nghĩa:

HÀN TÍN

Anh hùng khi không câu nữa, vẫn có thể chọn được minh quân,

Há cứ ngồi bó gối nhìn bốn biển nổi gió bụi? Kiếm vung đất Tần, đất Sở, hơi máu tanh trong gió,

Tìm được chức vương hầu thì bó buộc trong ấn tín.

Đưa cơm chỉ biết, rồng có thể quấy,

Dọ lòng nào đoán được, loài trĩ khó dạy. 5 Nếu như đừng cãi lời người tướng số, Công lớn xưa nay được mấy người.

Dịch thơ:

Bỏ câu, tráng sĩ chọn minh quân, Há cứ ngồi xem biển sóng cồn.

Tần, Sở kiếm vung, hơi nhuốm máu, Vương hầu câu được, ấn ràng thân. Kiếm cơm chỉ biết, rồng còn chọc, Dọ ý ai hay, trĩ khó thuần.

Nếu chẳng trái lời người tướng thuật, Người xưa công trạng mấy ai hơn?


112.

其二

中原鹿走四郊塵謀食王孫尚寄身杖劍栖皇干漢楚登壇激烈定齊秦泰山未見盟如礪狡兔空成嘆若人名遂使能閑再釣五湖煙景勝淮津

KỲ NHỊ

Trung Nguyên lộc tẩu tứ giao trần, Mưu thực vương tôn thượng ký thân. Trượng kiếm thê hoàng can Hán Sở, Đăng đàn kích liệt định Tề Tần.

Thái Sơn vị kiến minh như lệ,

Giảo thố không thành thán nhược nhân. Danh toại sử năng nhàn tái điếu,

Ngũ Hồ yên cảnh thắng Hoài Tân.

Dịch nghĩa:

BÀI 2,

Thiên hạ Trung Nguyên như hươu chạy, bốn bề nổi bụi,

Chàng công tử chỉ biết lo cầu cái ăn còn gửi thân chưa lộ.


5 Hai câu này ý nói Hàn Tín có thể qua mặt Hán Cao Tổ nhưng không qua mặt được Lữ Hậu.


Khi chống kiếm bôn ba, làm nên cuộc Hán, Sở, Lúc lên đàn tướng thật oai phong, diệt nước Tề, Tần.

Ngôi vững như Thái Sơn chưa thấy, mà lời hội thề đã tiêu mòn,

Thỏ khôn giết được rồi, lại thở than như người ta từng nói. 1

Nếu khi danh toại mà có thể quay về nhàn câu như trước,

Cảnh vật ở Ngũ hồ hơn cả cảnh bến Hoài Tân.

Dịch thơ:

Trung Nguyên hươu ruổi, bụi tung tràn, Tráng sĩ tìm cơm hãy gửi thân.

Múa kiếm xông pha, chia Hán, Sở, Lên đàn lẫm liệt, định Tề, Tần.

Thái Sơn chưa vững, sai thề hẹn, Thỏ chết thôi đành, oán thế nhân. Danh toại lui về câu chốn cũ, Ngũ Hồ cảnh sắc đẹp hơn phần.


113.

咏史

妖矯苖2孫醉後庭金華玉珮響瑓玎班姬懇欵辤同輦趙燕參差入內屏荒逕鬼薪臨雨秃深宮禍水久風腥徒勞太乙燃藜夜爭奈昭陽粉黛靈

VỊNH SỬ

Yêu kiểu miêu tôn tuý hậu đình, Kim hoa ngọc bội hưởng đông đinh. Ban Cơ khẩn khoản từ đồng liễn, Triệu Yến sâm si nhập nội bình.

Hoang kính quỵ tân lâm vũ ngốc, Thâm cung hoạ thuỵ cửu phong tinh. Đồ lao Thái Ất nhiên lê dạ,

Tranh nại Chiêu Dương phấn đại linh.

Dịch nghĩa:

VỊNH SỬ

Vương tôn uống say nằm như mạ ngã ở hậu đình,

Những cô gái đeo ngọc bội, hoa vàng múa hát, tiếng vọng leng keng.

Ban Cơ khẩn nài, từ chối ngồi cùng xe, 3


1 Hai câu này nhắc chuyện Hàn Tín khi bị bắt từng than van. Xem chú thích ở bài trên.

2 Nguyên văn khắc chữ này trên bộ thảo, dưới như chữ điện viết tắt, tự dạng giống chữ miêu nhưng chúng tôi chưa rõ là chữ gì, tạm để chữ , chờ khảo lại.

3 Ban Cơ: tức Ban Tiệp dư, cung nữ đời Hán, có tài thơ ca. Sau khi bị Hán Thành Đế lãng quên, nàng lui về ở Đông cung, làm

thơ đề vào quạt, tự ngụ chiếc quạt trong mùa thu không ai dùng

Triệu Phi Yến ẻo lả vào trong màn. 4

Đường hoang gai góc, sau mưa trơ trọi,

Thâm cung nước bẩn đọng, lâu ngày gió thổi tanh tao.

Uổng công đêm nào cũng xông hương cầu đảo Thái Ất (ở núi Chung Nam)

Chỉ được linh nghiệm là những cô gái tranh nhau ở gác Chiêu Dương.

Dịch thơ:

Một giấc say sưa, giữa hậu đình, Hoa vàng ngọc bội, vọng hư thinh. Ban Cơ cố chối cùng xa giá,

Triệu Yến đua chen đến nội bình. Mưa dội đường hoang, gai góc lẫn, Gió đưa cung cấm, nước hồ tanh. Nhọc cho mỗi tối thiêu hương nguyện, Chỉ được bao nàng tranh sủng quanh.


114.

其二

王歇金陵起晉家雲迴日月擁羊車石頭降主來丹殿玉臂佳人舞絳紗輕重君恩觀竹葉淡濃春思卜鹽花三楊未起樗蒲散滿眼胡塵壓翠華

KỲ NHỊ

Vương yết Kim Lăng khởi Tấn gia, Vân hồi nhật nguyệt ủng dương xa. Thạch Đầu hàng chủ lai đan điện, Ngọc tý giai nhân vũ giáng sa.

Khinh trọng quân ân quan trúc diệp, Đạm nùng xuân tứ bốc diêm hoa.

Tam Dương vị khởi xư bồ tán, Mãn nhãn Hồ trần áp thuý hoa. Dịch nghĩa:

BÀI 2

Vua dừng chân ở Kim Lăng, khởi nghiệp nhà Tấn,

Mây che mờ nhật nguyệt, bao phủ cả xe dê. 5 Chúa đầu hàng đến chầu điện nhà vua, 6 Người đẹp tay trắng như ngọc, múa lụa đỏ.


đến như mình bị thất sủng. Phiếm chỉ người đẹp bị thất sủng trong cung.

4 Triệu Yến: tức Triệu Phi Yến. Ở đây, phiếm chỉ người đẹp trong cung.

5 Dương xa: xe do dê kéo. Sách Tấn thư chép chuyện Tấn Võ

Đế có nhiều cung tần, nên phải dùng chiếc xe có dê kéo để đến các hậu cung. Xe dê đến phòng nào, vua ngủ lại phòng đó. Vì thế các cung phi tranh nhau lấy lá, tẩm muối, rắc trước phòng để nhử dê đến phòng của mình. Ở đây ý chỉ nhà vua.

6 Câu này chỉ việc Tôn Hạo chúa nước Ngô ra hàng nước Tấn ở thành Thạch Đầu.


Ơn vua có khi trọng có khi khinh, thường xem lá trúc,

Tình xuân khi nhạt khi nồng, bói hoa tuyết. Tam Dương chưa nổi dậy, đã tan rã như cây xư, cỏ bồ.

Loạn giặc Hồ tràn khắp, áp chế xa giá nhà vua.

Dịch thơ:

Chọn đất Kim Lăng dựng Tấn triều, Xe dê, nhật nguyệt, bóng mây bao. Chúa hàng xin đến chầu cung điện, Người ngọc đưa sang vũ khúc đào. Tình ý nhạt nồng, xem cánh tuyết, Ơn vua được mất, ngắm tre xao.

Tam Dương chưa nổi, đà tan tác, Khắp chốn bụi Hồ, ngập giá cao.

己未年

KỶ MÙI NIÊN (1799)


115.

琥珀麟扇墜世家秦大夫骨相周公子遺愛在人心仁風乘濟美

HỔ PHÁCH LÂN PHIẾN TRUỲ

Thế gia Tần đại phu, Cốt tướng Chu công tử. Di ái tại nhân tâm, Nhân phong thừa tế mỷ. Dịch nghĩa:

TUA QUẠT BẰNG HỔ PHÁCH

Gia thế thuộc dòng dõi đại phu nước Tần, Cốt cách thuộc dòng dõi Chu Công.

Được yêu thích bởi ở lòng người, Làn gió nhân nối vẻ tốt đẹp cứu dân.


116.

目鏡

秀毓水之精諸邦目上卿團圓月對望皓潔玉雙清蹟晦端年少功光屬老成長安塵滿眼不損本來明

MỤC KÍNH

Tú dục thuỵ chi tinh,

Chư bang mục thượng khanh. Đoàn viên nguyệt đối vọng, Hạo khiết ngọc song thanh.

Tích hối đoan niên thiếu, Công quang thuộc lão thành. Trường An trần mãn nhãn,1 Bất tổn bản lai minh.

Dịch nghĩa:

KÍNH MẮT

Được tạo ra từ kết tinh của nước,

Như bậc thượng khanh là con mắt của các nước.

Cùng nhìn ánh trăng tròn,

Trong veo như một đôi ngọc sáng. Trẻ nhỏ đeo vào thì tối mờ,

Tuổi già đeo nó lại sáng tỏ ra. Dẫu bụi kinh thành tràn ngập,

Cũng chẳng hại đến tính sáng của ngươi.


117.

耳爬

側聽世糊塗憑君去舊汚心樞能自潔身牖不容蕪看破人頭腦開通命道途何勞流洗耳巢父費工夫

NHĨ BẢ

Trắc thính thế hồ đồ, Bằng quân khử cựu ô. Tâm xu năng tự khiết, Thân dũ bất dung vu. Khán phá nhân đầu não, Khai thông mệnh đạo đồ. Hà lao lưu tẩy nhĩ,

Sào Phủ phí công phu.

Dịch nghĩa:

CÂY RÁY TAI

Nghiêng tai nghe, không rõ sự đời,

Nhờ ngươi (móc tai) mà ta bỏ được những dơ dáy cũ.

Then lòng, nhờ đó mà tự trong sạch,

Tấm thân, nhờ đó cũng không chứa đều dơ. Thấy toạc được suy nghĩ của người ta,

Mở thông con đường sự sống. Nhọc gì xuống dòng sông rửa tai,

Mà Sào Phủ cũng chẳng uổng công đưa trâu đi nơi khác uống nước. 2


1 Trường An: ở đây mượn dùng chỉ kinh đô.

2 Sào Phủ: tên người ẩn sĩ thời Đường Nghiêu. Vua Nghiêu nhường ngôi cho Hứa Do, Hứa Do không nhận, quy ẩn ở Ki

Sơn. Vua Nghiêu lại cho người đến mời, Hứa Do bèn xuống dòng sông Dĩnh rửa tai, vì cho việc chính trị làm bẩn tai mình. Sào Phủ bấy giờ đang cho trâu uống nước bên sông, thấy vậy



118.

青蝦

占斷江湖起大家才高躍浪羨青蝦恩加內相清綃印俸食長鬚綠稻花鉗刺薔薇兵可衛甲裝琬琰富堪誇追思赤壁遊蘓子舊侶當時興轉賒

THANH HÀ

Chiếm đoạn giang hồ khởi đại gia, Tài cao dược lãng tiện thanh hà.

Ân gia nội tướng thanh tiêu ấn, Bổng thực trường tu lục đạo hoa. Kiềm thích tường vi binh khả vệ,

Giáp trang uyển diễm phú kham khoa. Truy tư Xích Bích du Tô Tử,

Cựu lữ đương thời hứng chuyển xa.

Dịch nghĩa:

TÔM CÀNG XANH

Chiếm lấy một khúc sông hồ, làm bậc đại gia, Tài cao vượt sóng, ngưỡng mộ thay tôm càng xanh.

Được ban ơn, dáng mạo như dải lụa sống trong suốt,

Được bổng cho, râu dài như lá lúa xanh.

Hai càng trông như gai hồng, có thể phòng vệ, Vỏ mặc giáp như ngọc, thật là kẻ giàu có.

Nhớ lại chuyện xưa Tô Đông Pha đi chơi nơi Xích Bích, 1

Những người bạn cũ bấy giờ, hứng đã phai.

庚申年

CANH THÂN NIÊN (1800)

119.

送兵部叅知靜遠侯吳汝山奉使序引

葢以丙午年,西山阮光平,因安南國,君弱臣強, 鄭氏專政, 人心思我朝先世功德,遂假竊御名兵清君側掩襲昇隆城,黎昭統出奔大清。戊午年,靜遠侯奉往廣東間行候問昭統消息,起居船到江門港,適值白蓮教煽亂于四川, 道路梗塞以事返命。己未年,王師進軍歸仁城降之後,颶風暴發中,水官兵漂到廣東瓊州陵水縣,地方官給賜衣糧,繕修船艘引送回國。今年復命吳侯往粵爲謝恩使兼請入貢事例,


hỏi duyên cớ, Hứa Do kể lại, Sào Phủ vội dẫn trâu đi uống nước ở dòng trên vì sợ bẩn miệng trâu.

1 Xích Bích, Tô Tử: nhắc chuyện Tô Đông Pha dạo chơi vùng Xích Bích, có làm bài phú Xích Bích nổi tiếng.

時御兵自嘉定城進解歸仁之圍,留余守護糧儲于平和鎮海澳,接見使船自嘉定來,示諸友送詩焂掛使旛,言詣行在所拜命,前往余因和韻一首,別韻二首用表餞情。若云: 君子送人以言, 則無一言而可是序。

愧無寸善壓群豪客地虛沽眾譽騷錢穀我猶司陣後旌旄君正逐風高幹旋鳶趾連鰲極沐浴凰池展鳳毛此去殷勤收底績主憂臣莫奈頻勞

TỐNG BINH BỘ THAM TRI TĨNH VIỄN HẦU NGÔ NHỮ SƠN PHỤNG SỨ TỰ DẪN

Cái dĩ Bính Ngọ niên Tây Sơn Nguyễn Quang Bình nhân An Nam quốc quân nhược thần cưỡng, Trịnh thị chuyên chính, nhân tâm tư ngã triều tiên thế công đức, toại giả thiết Ngự danh binh thanh quântrắc yểm tập Thăng Long thành. Lê Chiêu Thống xuất bôn Đại Thanh. Mậu Ngọ niên, Tĩnh Viễn hầu phụng vãng Quảng Đông, gian hành hậu vấn Chiêu Thống tiêu tức, khởi cư thuyền đáo Giang Môn cảng thích trị Bạch Liên giáo phiến loạn vu Tứ Xuyên, đạo lộ ngạnh tắc dĩ sự phản mệnh. Kỵ Mùi niên vương sư tiến quân Quy Nhơn thành hàng chi hậu, cụ phong bạo phát trung thuỵ quan binh phiêu đáo Quảng Đông Quỳnh Châu Lăng Thuỵ huyện, địa phương quan cấp tứ y lương thiện tu thuyền sưu dẫn tống hồi quốc. Kim niên phục mệnh, Ngô hầu vãng Việt vị tạ ân sứ kiêm thỉnh nhập cống sự lệ, thời ngự binh tự Gia Định thành tiến giải Quy Nhơn chi vi, lưu dư thủ hộ lương trừ vu Bình Hoà trấn hải úc, tiếp kiến sứ thuyền tự Gia Định lai, thị chư hữu tống thi thúc quải sứ phan, ngôn nghệ hành tại sở bái mệnh, tiền vãng dư nhân hoạ vận nhất thủ biệt vận nhị thủ, dụng biểu tiễn tình. Nhược vân: quân tử tống nhân dĩ ngôn, tắc vô nhất ngôn nhi khả thị tự.

Quý vô thốn thiện áp quần hào, Khách địa hư cô chúng dự tao. Tiền cốc ngã do tư trận hậu,

Tinh mao quân chính trục phong cao. Cán tuyền diên chỉ liên ngao cực, Mộc dục hoàng trì triển phụng mao. Thử khứ ân cần thu để tích,

Chủ ưu thần mạc nại tần lao.

Dịch nghĩa:

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí