Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 37


Tuế thời hưu giảo biệt li đa. Thôi song cao hoán chiêu chu tử, Khởi đĩnh phi nghiêu cấp độ hà. Dịch nghĩa:

Nơi đất lạ đã qua ba tháng mười, Làng thôn Dương Liễu sầu não lòng. Cửa tre vắng vẻ, đá núi lạnh lẽo,

Thuyền thúng xoay vòng, sóng đá mài mòn. Ơn vua ơn nước còn mang nặng chưa đền đáp, Năm tháng xa cách còn dần dà chưa về.

Đẩy cửa cao giọng gọi lái đò,

Nhổ neo trương buồm gấp gấp vượt sông.

Dịch thơ:

Ba bận tháng mười nơi đất lạ, Đến thôn Dương Liễu, sầu ôi cha! Cửa sài tịch mịch triền non lạnh, Thuyền nhỏ lòng vòng sóng đá va.

Quân quốc chưa đền ơn nghĩa nặng, Tháng năm mờ mịt nỗi chia xa.

Lùa song cao giọng kêu đò mãi,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Hãy chóng khua chèo vượt sóng qua.


Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 37

166/21.

山 城 深 處 咽 清 笳隔 岸 殘 陽 落 遠 沙萬 里 匆 匆 天 外 客一 泓 淡 淡 月 中 槎蕭 森 青 欖 臨 三 峽飄 泊 紅 蘋 過 五 叉酒 後 覺 來 詩 肚 燥呼 童 生 火 夜 烹 茶

Sơn thành thâm xứ yết thanh già, Cách ngạn tàn dương lạc viễn sa.

Vạn lý thông thông thiên ngoại khách, Nhất hoằng đạm đạm nguyệt trung tra. Tiêu sâm thanh trám lâm Tam Hiệp,1 Phiêu bạc hồng tần quá Ngũ Xoa.2 Tửu hậu giác lai thi đỗ táo,

Hô đồng sinh hoả dạ phanh trà.

Dịch nghĩa:

Chốn sâu nơi thành núi có tiếng và nổi lên, Bóng chiều tà bên kia bờ rơi xuống bãi cát xa. Người khách lạ trên đường muôn dặm vội vã, Một mái bè trôi trên dải sông rộng bàng bạc ánh trăng.

Rừng cây trám um tùm xanh ngát, dẫn vào Tam Hiệp,

Bập bềnh tần đỏ, vượt qua Ngũ Xoa.

Sau cơn rượu chợt thấy lòng thơ thúc giục, Gọi trẻ nhuốm lửa pha trà đêm.


1 Tam Hiệp: Nguyên chú: địa danh. Tam Hiệp hay còn gọi là Tam Giáp.

2 Ngũ Xoa: Nguyên chú: địa danh.

Dịch thơ:

Sơn thành hun hút tiếng tù và, Bên núi chiều tà bãi cát xa.

Muôn dặm bôn ba người viễn xứ, Một dòng bát ngát mái trăng ngà. Trám xanh ngăn ngắt vào Tam Hiệp, Tần đỏ bồng bềnh vượt Ngũ Xoa.

Cơn rượu tỉnh rồi thơ xót dạ, Gọi đồng nhóm lửa, tối pha trà.


167/22.

山 如 利 戟 水 如 湯前 路 悠 悠 險 且 長橘 柚 影 寒 籠 曉 霧猴 猻 聲 斷 入 斜 陽輕 肥 我 遇 深 於 赤報 補 心 雄 貫 彼 蒼會 挹 龍 光 歸 去 後輿 頭 分 插 嶺 梅 香 3

Sơn như lợi kích thuỵ như thang, Tiền lộ du du hiểm thả trường.

Quýt dữu ảnh hàn lung hiểu vụ, Hầu tôn thanh đoạn nhập tà dương. Khinh phì 4 ngã ngộ thâm ư xích, Báo bổ tâm hùng quán bỉ thương. Hội ấp long quang quy khứ hậu, Dư đầu phân sáp lĩnh mai hương. Dịch nghĩa:

Núi như kích nhọn, nước nóng như sôi, Chặng đường phía trước dài dằng dặc và đầy nguy hiểm.

Bóng cây cam quýt lạnh lẽo trong màn sương sớm,

Tiếng vượn tiếng hầu đứt nối hút trong ánh tà dương.

Ta được ơn tri ngộ đối đãi sâu đậm hơn son đỏ, Lòng muốn báo đáp thấu cả trời xanh.

Sau khi mang ánh sáng vinh quang trở về, Trước đầu xe chia cắm mai núi ngát hương. Dịch thơ:

Non như giáo nhọn, nước như sôi, Tiền lộ gian nguy xa cách vời.

Bóng quýt lạnh lùng sương sớm phủ, Tiếng hầu nức nở bóng chiều rơi.

Nghĩa tình tri ngộ hơn son thắm, Báo đáp hùng tâm thấu đất trời. Mang ánh long quang ta trở lại, Đầy xe mai núi ngạt ngào phơi.


3 Bản Trần Kinh Hoà chép: 擔 頭 分 帶 嶺 梅 香

4 Khinh phì: ý chỉ áo cừu nhẹ, ngựa béo tốt (khinh cầu phì mã).

Luận ngữ: Thừa phì mã, ý khinh cầu (cỡi ngựa béo, mặc áo cừu nhẹ). Ở đây có ý chỉ ơn tri ngộ đối đãi của vua Nguyễn đối với tác giả.


168/23.

帆 開 燕 翼 蘸 流 清風 送 舟 臨 肇 慶 城屋 舍 蟬 聯 炎 帝 市旌 旛 隼 動 亞 夫 營歲 將 餘 日 收 成 効雲 爲 孤 山 補 不 平遙 度 故 園 今 夜 況有 人 燈 下 數 歸 程

Phàm khai yến dực trám (tiếu) lưu thanh, Phong tống chu lâm Triệu Khánh thành. Ốc xá thiền liên Viêm đế thị,1

Tinh phiên chuẩn động Á phu doanh.2

Tuế tương dư nhật thâu thành hiệu, Vân vị cô sơn bổ bất bình.

Dao đạc cố viên kim dạ huống, Hữu nhân đăng hạ sổ quy trình. Dịch nghĩa:

Cánh buồm mở ra như cánh én giữa dòng nước trong,

Gió đưa thuyền vào đến thành Triệu Khánh. Nhà cửa sầm uất như chợ Viêm đế,

Cờ xí rợp trời tựa doanh trại của Á phu. Năm sắp tàn, gắng gom lại những ngày thừa,

Mây vì núi đơn lẻ, vá những khoảng trống chẳng bằng.

Nơi xa đoán chắc đêm nay ở vườn cũ,

Có người bên ngọn đèn đếm ngày ta trở về.

Dịch thơ:

Buồm căng cánh én, lướt dòng sông, Triệu Khánh thuyền vô gió thổi nồng. Viêm Đế cửa nhà san sát nối,

Á Phu cờ xí rợp trời phong. Năm tàn gom góp ngày thừa lại,

Mây phủ vá chằng khoảng núi không. Vườn cũ, đêm nay, xa đoán biết, Ngày về, dưới nến có người trông.


169/24.

鷺 藏 深 樹 曠 沙 汀疊 嶂 層 巒 列 畫 屏骨 瘦 江 城 梅 落 落影 疏 村 巷 竹 亭 亭偶 因 興 逸 忘 人 我


1 Viêm Đế: họ Khương, xưng họ Thần Nông, thay họ Phục Hy làm vua, chế tạo cày bừa dạy dân canh tác, nếm trăm thứ cỏ để làm thuốc, giữa trưa thì họp chợ, để thúc đẩy buôn bán, truyền ngôi được tám đời, gồm 500 năm. Ở đây ý chỉ phương nam Trung Quốc (Theo tự điển Từ nguyên).

2 Á Phu doanh: doanh trại của Liễu Á Phu. Sách Hán thư, Chu Á Phu truyện chép: Thời Hán Văn đế, đại tướng Chu Á Phu,

đóng quân ở Tế Liễu (nay là vùng đông bắc huyện Lâm đồng tỉnh Thiểm Tây), quân pháp nghiêm minh, thiên tử đến, chưa có lệnh quân sĩ không dám mở cửa cho vào, người đời sau thường gọi là “Liễu doanh”, hay “Á Phu doanh”.

乍 恐 吟 高 遏 斗 星詩 酒 近 來 充 客 料應 知 默 有 效 山 靈

Lộ tàng thâm thụ khoáng sa đinh, Điệp chướng tằng loan liệt hoạ bình. Cốt sấu giang thành mai lạc lạc, Ảnh sơ thôn hạng trúc đình đình.

Ngẫu nhân hứng dật vong nhân ngã,3 Sạ khủng ngâm cao át (yết) đẩu tinh.

Thi tửu cận lai sung khách liệu, Ưng tri mặc hữu hiệu sơn linh. Dịch nghĩa:

Cò vạc trốn trong lùm cây nơi bãi cát rộng, Núi non trùng điệp bày như bức bình phong. Mai ở thành bên sông gầy xơ xác,

Bóng trúc nơi đầu hẻm rũ lơ thơ.

Chợt vì dật hứng nên quên ta với người, Thoắt sợ ngâm nga át cả sao đẩu.

Thơ với rượu gần đây tràn trề lòng khách, Nên biết yên lặng học theo non thiêng.

Dịch thơ:

Rừng sâu cò ẩn bãi buồn tênh, Non núi lô nhô tựa hoạ bình. Xương xẩu Giang thành mai lả tả, Rập rờn thôn xóm trúc xanh xanh.

Bởi nhân dật hứng quên ta - khách, Chợt sợ cao ngâm át đẩu tinh.

Thơ rượu dạo này tuỳ khách liệu, Học theo linh núi cứ làm thinh.


170/25.

觀 音 觀 裏 石 崚 嶒擎 出 雲 間 補 納 僧星 篲 掃 餘 寒 葉 聚月 簾 釣 下 暮 煙 凝靜 參 風 送 三 生 偈閑 卜 花 開 五 夜 燈到 枕 吼 鯨 音 百 八一 腔 俗 慮 碧 江 澄

Quan Âm quán lý thạch lăng tằng, Kình xuất vân gian bổ nạp tăng.

Tinh tuệ tảo dư hàn diệp tụ,

Nguyệt liêm điếu hạ mộ yên ngưng. Tĩnh tham phong tống tam sinh kệ, Nhàn bốc hoa khai ngũ dạ đăng.

Đáo chẩm hống kình âm bách bát, Nhất xoang tục lự bích giang trừng. Dịch nghĩa:

Trong tự quán Quan Âm, đá bày cao chót vót, Giữa đám mây hiện ra một vị sư.



3 Vong nhân ngã: quên đi đâu là khách đâu là chủ, cũng như vong ngã (quên đi bản ngã), chỉ tâm đạt tới tĩnh lặng.


Những vì sao như chiếc chổi gom quét lá thu dồn lại,

Bức màn trăng thả câu, khói chiều như ngưng tụ.

Ngồi lặng lẽ, gió vẳng đưa bài kệ tam sinh (ba đời),

Nhàn nhã nhìn xem, ngọn nến năm canh nở hoa đèn,

Tiếng chuông vọng đến gối một trăm lẻ tám tiếng,

Bao niềm trần tục lắng trong như dòng sông xanh.

Dịch thơ:

Tự quán Quan Âm núi xếp tầng,

Ngàn mây phảng phất bóng tăng nhân. Chổi sao quét lá thu về cội,

Ánh nguyệt câu liêm khói ngỡ ngừng. Ba kiếp kinh lồng, ta tĩnh lặng,

Năm canh đèn nở, đoá hoa dâng. Tiếng kình vọng gối trăm linh tám, Sông biếc gạn trong những nhọc nhằn.


171/26.

恰 逢 身 世 到 神 州十 里 餘 過 一 傳 郵歸 海 江 流 今 古 夢依 山 城 築 往 來 愁談 心 喜 共 陳 徐 榻醉 月 閑 聯 李 郭 舟平 樂 金 鑼 聲 一 響桂 林 景 色 入 船 頭

Cáp phùng thân thế đáo thần châu,

Thập lý dư qua nhất truyền (truyện) bưu. Quy hải giang lưu kim cổ mộng,

Y sơn thành trúc vãng lai sầu. Đàm tâm hỵ cộng Trần Từ tháp,1

Tuý nguyệt nhàn liên Lý Quách chu.2

Bình Lạc kim la thanh nhất hưởng, Quế Lâm cảnh sắc nhập thuyền đầu. Dịch nghĩa:

Kiếp này may gặp được đến đất kinh kỳ, Qua hơn mười dặm có một trạm truyền tin.

Dòng sông chảy về biển chở theo giấc mộng xưa nay,



1 Trần Từ: tức Trần Phồn, Từ Trĩ. Trần Phồn có chiếc giường, chỉ giành riêng cho bạn mình là Từ Trĩ ngồi. Khi Từ Trĩ về, Trần Phồn lại treo giường lên.

2 Lý, Quách: tức Lý Ưng và Quách Thái. Sách Hậu Hán thư, Quách Thái truyện chép: Quách Thái tự Lâm Tông, người Giới

Hưu, Thái Nguyên, gia thế nghèo hèn, bèn đi chơi ở Lạc Dương, gặp quan doãn Hà Nam Lý Ưng. Ưng lấy làm lạ bèn kết bạn, do đó danh tiếng chấn động kinh sư. Sau về quê, các nhà nho tiễn đến bên sông, số xe đến nghìn cỗ. Lâm Tông với Lý Ưng ngồi chung thuyền, cùng hợp sức chèo lái. Các tân khách nhìn đều cho là thần tiên. (Chú theo bản của Hoài Anh)

Thành xây dựa vào núi, chứa chất nỗi sầu kim cổ.

Cùng giường tâm tình, như Trần Phồn, Từ Trĩ, Chung thuyền say trăng tựa Lý Ưng, Quách Thái.

Tiếng chuông vàng ở Bình Lạc vừa vang động, Cảnh sắc Quế Lâm thu cả vào trong thuyền.

Dịch thơ:

Thân sứ ta nay đến đế kỳ,

Đường qua mười dặm một tin bay. Sông về biển rộng, mơ kim cổ, Thành dựa non ngàn, hận vãng lai. Chung sạp Trần, Từ, vui ý hợp,

Một thuyền Lý, Quách, đối trăng say. Chuông vàng Bình Lạc vừa vang động, Cảnh Quế thuyền thu một cõi này.


172/27.

雲 到 山 頭 嵐 出 林雲 開 山 竇 夕 嵐 沈漂 羅 漸 蹙 江 心 水喜 客 全 希 葉 底 禽已 見 粵 西 還 若 此更 聞 燕 北 雪 猶 深慇 勤 報 與 同 舟 道整 頓 衣 裘 理 褥 衿

Vân đáo sơn đầu nham xuất lâm, Vân khai sơn đậu tịch nham trầm, Phiêu la tiệm xúc giang tâm thuỵ, Hỉ khách toàn hy diệp để cầm.

Dĩ kiến Việt Tây hoàn nhược thử, Cánh văn Yên Bắc tuyết do thâm. Ân cần báo dữ đồng chu đạo, Chỉnh đốn y cầu lý nhục khâm.

Dịch nghĩa:

Mây bay đến đầu núi, khói lam ra khỏi rừng, Mây tan ra khỏi hang, khói chiều phủ xuống. Bồng bềnh con thuyền chạm sát nước lòng sông,

Trong bụi thưa chim hót như mừng khách đến. Đã thấy cảnh trời Việt Tây (Quảng Tây) như thế này,

Lại thêm nghe Yên Bắc (Bắc Kinh) tuyết rơi dày.

Ân cần nhắn với người cùng thuyền, Hãy thu xếp áo cừu chăn bông cẩn thận. Dịch thơ:

Mây phủ đầu non khói núi tà, Hốc non mây vén, khói chiều sa. Lặng lờ thuyền lướt lòng sông áp, Ríu rít chim chào dưới bãi xa.

Đã thấy Việt Tây hơi khí lạnh, Thêm nghe Yên Bắc tuyết rơi nhoà.


Ân cần nhắn bảo trong thuyền hãy, Sửa soạn chăn màn, áo ấm nha!


173/28.

濟 世 人 材 說 楩 楠自 傷 樗 櫟 重 行 拈瞢 聞 荊 璧 秦 庭 弄只 愛 驪 珠 禹 穴 探水 陸 莫 勞 程 里 萬江 山 相 送 我 儔 三擬 酬 二 百 年 孤 望皇 化 從 玆 到 越 南

Tế thế nhân tài thuyết tiện nam, 1

Tự thương xư lịch trọng hành niêm.2 Mông văn3 kinh bích Tần đình lộng,4 Chỉ ái li châu Vũ huyệt tham.5

Thuỵ lục mạc lao trình lý vạn,6 Giang sơn tương tống ngã trù tam. Nghĩ thù nhị bách niên cô vọng,7

Hoàng hoá tùng tư đáo Việt Nam.

Dịch nghĩa:

Bậc nhân tài cứu đời nói chuyện cây tiện nam, Tự thương mình vô dụng mà được trọng dụng. Xa nghe ngọc kinh hí lộng cả triều Tần,

Chỉ thích cầm ngọc li châu thăm hang Vũ. Bôn ba vạn dặm đường thuỵ đường bộ, cũng đừng than khó nhọc,

Đã có núi sông đưa tiễn ba người chúng ta. Hãy đáp đền nỗi mong ngóng từ hai trăm năm trước,

Ơn vua từ đây thấm nhuần Việt Nam.



1 Tiện nam: loại cây lớn, sinh sản ở vùng núi đất Thục Kiềm. Thân cao hơn mười trượng, lá lớn có hình tròn, mùa đông không bị rụng lá, hoa có màu xanh nhạt, quả tím đen, chất gỗ cứng lại có mùi thơm, dùng làm rường cột vật dụng rất tốt, màu cây đỏ thì cứng, màu cây trắng thì giòn.

2 Xư lịch: Cây xư, cây lịch, loại gỗ không dùng được việc gì, nên bây giờ tự nói nhún mình là "xư tài" kẻ vô tài.

3 Bản Trần Kinh Hoà chép: 蓇 間

4 Kinh bích Tần đình lộng: ôm ngọc kinh giữa triều Tần. Chỉ

chuyện Lạn Tương Như đi sứ sang Tần, đem ngọc đổi thành. Vua Tần muốn được ngọc mà không chịu giao thành, Tương Như quyết chết theo ngọc, buộc Tần phải đổi mười lăm toà thành để lấy ngọc.

5 Vũ huyệt: hang Vũ. Theo Sử ký, Thái sử công tự tự có nói: năm hai mươi tuổi đi về phương nam chơi ở vùng Giang Hoài,

lên núi Cối Kê, vào Vũ huyệt. Sách Chính nghĩa dẫn quát địa chí nói: núi Thạch Thanh, còn có tên là núi Ngọc Duẩn, lại có tên là núi Uyển Uỵ, tức ngọn núi Cối Kê. Sách Thuỷ kinh chú nói: Trên núi Cối Kê có miếu của vua Vũ. Ngày xưa, vua Vũ đi tuần thú phía đông, mất ở Cối Kê, nền táng ở đất ấy. Phía đông ngọn núi có cái giếng sâu không thấy đáy, tức là Vũ huyệt.

6 Bản Trần Kinh Hoà chép là 萬 里 e nhầm, vì không đối với

câu dưới.

7 Câu này có lẽ nói đến nhà Nguyễn, kể từ mở cõi, chia đàng

Trong và đàng Ngoài vào năm 1600 cho đến khi Gia Long lên ngôi 1802, là được hơn 200 năm. Trong thơ Nôm Đi sứ cảm tác, ông cũng có ý giống câu này.

Dịch thơ:

Cứu đời thường nói tiện nam tinh, Vô dụng thân đây cũng được vinh. Riêng thích cầm châu chơi Vũ huyệt, Đã nghe ôm ngọc giỡn Tần đình.

Dặm đường thuỷ bộ, đừng than nhọc, Suốt cõi non sông, tiễn chúng mình. Dốc đáp ân tình bao thuở trước,

Việt Nam giờ đã gội oai linh.


174/29.

海 龍 領 袖 狐 裘 襜備 禦 窮 冬 具 已 兼且 看 分 明 山 聚 米何 關 歷 亂 雪 飄 鹽官 巖 廊下 花 名 勝 8佛 鎮 街 前 酒 價 廉夜 半 彷 徨 眠 不 得姮 娥 消 息 隔 重 簷

Hải long lĩnh tụ hồ cầu xiêm, Bị ngự cùng đông cụ dĩ kiêm. Thả khán phân minh sơn tụ mễ,

Hà quan lịch loạn tuyết phiêu diêm. Quan nham lang hạ hoa danh thắng, Phật trấn nhai tiền tửu giá liêm.

Dạ bán bàng hoàng miên bất đắc, Hằng Nga tiêu tức cách trùng diêm.9 Dịch nghĩa:

Cổ áo hình rồng biển, vạt áo cừu lông chồn, Những thứ chống chọi với cái rét mùa đông đã đầy đủ.

Nhìn thấy núi tuyết phủ rõ ràng như đống gạo trắng,

Nào lo tuyết bay tung như muối rắc đầy. Dưới mái hiên nhà quan, hoa nào cũng đẹp, Trước phố chùa chiền, hàng rượu giá rẻ.

Nửa đêm bồn chồn không ngủ được, Nhìn bóng trăng lấp ló treo trước hiên. Dịch thơ:

Cổ áo rồng chầu, áo khoác lông, Đủ kham giá rét cuối mùa đông. Hãy xem non chất như cơm trắng, Sá ngại tuyết lùa tựa muối bông. Hoa ở nhà quan nhiều kiểng đẹp, Rượu nơi trấn Phật giá như không. Nửa đêm thao thức không tròn giấc,

Trước mái hàng hiên bóng nguyệt lồng.


8 Các bản đều chép là 官 巖 鄉 下 quan nham hương hạ, khó mà dịch thông, nên chúng tôi e chép nhầm, theo chúng tôi là 官 巖 廊 下 quan nham lang hạ (dưới mái hiên nhà quan) mới

đúng.

9 Hằng Nga: còn gọi là Tần nga, vợ Hậu Nghệ, vì ngửi trộm thuốc tiên của Vương mẫu cho chồng mà bay lên cung trăng.

Sau Hằng Nga dùng để chỉ trăng.



175/30.

禿 盡 蘆 花 爲 雁 啣後 凋 寒 歲 識 松 杉水 湍 崖 震 將 遷 谷風 迓 雲 行 欲 墜 岩曉 日 乍 翻 龍 窟 動客 舟 纔 過 石 門 緘挑 燈 閑 讀 王 褒 頌壓 倒 情 芽 宿 未 芟

Ngốc tận lư hoa vị nhạn hàm, Hậu điêu hàn tuế thức tùng sam.1

Thuỵ thoan nhai chấn tương thiên cốc, Phong nhạ vân hành dục truỳ nham.

Hiểu nhật xạ phiên long quật động, Khách chu tài quá thạch môn giam. Khiêu đăng nhàn độc Vương Bao tụng,2 Áp đảo tình nha túc vị sam.

Dịch nghĩa:

Hoa lau bị lũ nhạn ngậm trụi hết,

Trời lạnh cây tàn mới biết tùng xanh tươi. Nước chảy xiết, vách núi rung tưởng hang dời, Gió thổi mây bay tưởng vách núi rơi.

Ánh nắng sớm chợt loé sáng như rồng bay ra khỏi hang thẳm,

Thuyền khách vừa qua khỏi cửa đá phong kín. Khêu đèn nhàn nhã ngồi đọc bài tụng của Vương Bao,

Đè nén được mầm tình lâu nay vẫn chưa cắt.

Dịch thơ:

Lũ nhàn ngậm trụi vạt hoa lau,

Năm muộn trời đông, thông vẫn màu. Nước xiết vách rung, non ngỡ động, Gió đưa mây cuốn, đá như xao.

Nắng mai loé sáng hang rồng chuyển. Thuyền khách vừa qua cửa đá rào.

Nhàn tụng Vương Bao khêu nến đọc, Mầm tình chưa cắt đã gầy hao.


177.

贈廣西省修職郎彭嵩齡伴使3堯階出瑞蓂

四極共來庭顧我眉無白多君眼有青梅酸羮佇和

枳棘鳳姑停拓落魁人傍江南地最靈

TẶNG QUẢNG TÂY TỈNH TU CHỨC LANG BÀNH TUNG LINH BẠN SỨ

Nghiêu giai xuất thụy minh,4

Tứ cực cộng lai đình. Cố ngã mi vô bạch,

Đa quân nhãn hữu thanh.5

Mai toan canh trữ hoạ, Chỉ cức phụng cô đình. Thác lạc khôi nhân bạng, Giang Nam địa tối linh. Dịch nghĩa:

TẶNG QUAN TIẾP SỨ BÀNH TUNG LINH, TU CHỨC LANG TỈNH QUẢNG TÂY

Thềm vua Nghiêu mọc cỏ minh tốt đẹp, Bốn phương cùng đến sân chầu,

Ông lo cho tôi chu đáo, lông mày không trắng, Cũng nhờ ông là người có con mắt xanh.

Quả mơ chua có thể hoà canh,

Cây gai góc, chim phụng không đỗ được.

Tôi bơ vơ giữa trời xa được đứng bên người kỳ vĩ,

Đất Giang Nam quả là chỗ địa linh.

Dịch thơ:

Thềm Nghiêu cỏ tốt sinh, Bốn cõi đến sân đình.

Chu đáo, mày không trắng, Thật tình, mắt có xanh.

Mơ chua, canh dễ nếm, Gai góc, phụng khôn dừng. Đứng cạnh người khôi vĩ, Giang Nam xứng địa linh.


186.

臨桂縣正堂范來濡前冬嚴寒惠送柴炭元宵鬧會復陪使部觀燈適承省委勸農告行因以詩贈

南馳繡節向神京臨桂高衙幸識荊送炭雪天饒厚意陪燈元夜綽餘情鄭牢善論慚非我文穆英風繼有卿雅見閭閻相指視


1 Câu này thoát từ ý câu “tuế hàn nhi hậu điêu”.

2 Vương Bao tụng: tức chỉ Thánh chủ đắc hiền thần tụng của

Vương Bao.Vương Bao, người đất Thục, sống vào thời nhà Hán, tên chữ là Tử Uyên. Thứ sử Ích Châu là Vương Tương tiến cử vào kinh đô, dâng bài Thánh chủ đắc hiền thần tụng. Thời Hán Tuyên Đế, làm chức Gián đại phu, sai người đến Ích Châu để tế tự thần Kim Mã Bích Kê, rồi mất trên đường đi.

3 Nguyên chú: 彭江南人 (Bành Tung người Giang Nam)

4 Minh: tức cỏ minh giáp, một loại cỏ báo điềm lành (theo truyền thuyết thời vua Nghiêu, Trung Quốc cổ đại).

5 Mi vô bạch: mày không trắng; nhãn hữu thanh: mắt có màu xanh, tức thanh nhãn. Xưa Nguyễn Tịch không thích ai thì trợn

mắt lên chỉ thấy toàn lòng trắng, ngược lại thì ông dùng mắt xanh. Thanh nhãn (mắt xanh) dùng để chỉ thái độ tôn trọng người khác. Cả hai đều có ý chỉ việc đối xử tôn trọng người khác.


朱旛良令勸春耕

LÂM QUẾ HUYỆN CHÍNH ĐƯỜNG PHẠM LAI NHU TIỀN ĐÔNG NGHIÊM HÀN HUỆ TỐNG SÀI THÁN NGUYÊN TIÊU NÁO HỘI PHỤC BỒI SỨ BỘ QUAN ĐĂNG THÍCH THỪA TỈNH UỶ KHUYẾN NÔNG CÁO HÀNH NHÂN DĨ THI TẶNG

Nam trì tú tiết hướng thần kinh, Lâm Quế cao nha hạnh thức kinh. Tống thán tuyết thiên nhiêu hậu ý, Bồi đăng nguyên dạ xước dư tình. Trịnh lao thiện luận tàm phi ngã, Văn mục anh phong kế hữu khanh. Nhã kiến lư diêm tương chỉ thị,

Châu phan lương lệnh khuyến xuân canh.

Dịch nghĩa:

CHÍNH ĐƯỜNG HUYỆN LÂM QUẾ LÀ PHẠM LAI NHU VÀO MÙA ĐÔNG TRƯỚC TIẾT SƯƠNG LẠNH ĐÃ TẶNG CHO THAN CỦI, HỘI RẰM THÁNG GIÊNG LẠI DẪN ĐOÀN SỨ BỘ ĐI XEM ĐÈN HOA, VỪA LÚC THỪA LỆNH TỈNH PHẢI ĐI KHUYẾN NÔNG NÊN CÁO BIỆT ĐI, NHÂN ĐÓ TÔI LÀM THƠ TẶNG

Từ phương Nam rong ruổi cầm cờ tiết đến kinh đô,

Nơi phố Lâm Quế may mắn được biết anh. Trời đông tuyết lạnh, anh tặng than củi, tỏ rõ ý đãi trọng hậu,

Đêm rằm tháng giêng, dẫn đi xem đèn hoa, tỏ tình rộng rãi của anh.

Tôi tự thẹn mình chẳng phải là kẻ giỏi luận bàn trong lao nước Trịnh,

Mà anh thì nối được phong cốt tốt đẹp của Văn Mục.

Thường thấy xóm làng tay chỉ nhìn nhau,

Cờ phướn đỏ ban lệnh khuyến khích vụ đầu xuân.

Dịch thơ:

Từ Nam rong ruổi đến kinh thành, Lâm Quế công đường may biết anh. Cho củi trời đông, bày hậu ý,

Xem đèn hội tết, tỏ chân tình. Trịnh lao giỏi luận, tôi thêm thẹn, Văn Mục anh tài, bác nối nhanh.

Nhìn thấy xóm làng cùng ngóng chỉ, Quan lành cờ đỏ khuyến xuân canh.


187.

粵西使館潤二月口占瓦雀雙雙戲霤前

案頭蜩蜥醒朝眠葉餘青莢階含雨

枝退黃楊戶遶煙王事靡遑稽地遠客愁無那值長年甌人乍報更春服寒勝吾鄉冬至天

VIỆT TÂY SỨ QUÁN NHUẬN NHỊ NGUYỆT KHẨU CHIẾM

Ngoã tước song song hý lựu tiền, Án đầu điêu tích tỉnh triêu miên. Diệp dư thanh giáp giai hàm vũ, Chi thối hoàng dương hộ nhiễu yên. Vương sự mỷ hoàng kê địa viễn, Khách sầu vô ná trị trường niên.

Âu nhân xạ báo canh xuân phục, Hàn thắng ngô hương đông chí thiên. Dịch nghĩa:

THÁNG HAI NHUẦN Ở SỨ QUÁN QUẢNG TÂY ỨNG KHẨU LÀM THƠ

Từng đôi chim én giỡn bay trước sân thềm, Trước giường tiếng thằn lằn làm tỉnh giấc ngủ sớm.

Cây giáp xanh còn vài chiếc lá, dưới thềm còn đằm cơn mưa,

Cành thông vàng trĩu xuống, ngoài cửa sổ khói toả bay.

Việc vua chưa thành, còn ở mãi nơi xa, Khách buồn chẳng biết thế nào, năm tháng đằng đẵng.

Trẻ hầu chợt báo đến lúc thay quần áo xuân, Mùa xuân mà lạnh hơn cả tiết trời đông chí ở quê mình.

Dịch thơ:

Từng đôi chin én giỡn sương bay, Trước án thằn lằn giục giấc mai. Hoa lá tươi xanh, thềm móc đẫm,

Thông vàng cành trĩu, cửa hương xây. Việc vua chưa vẹn, đường xa thẳm, Nỗi khách vô biên, năm tháng dài.

Hầu trẻ chợt thưa, xuân phục đổi, Lạnh hơn quê cũ tiết đông thay!


188.

使館清明同請封副使阮迪吉題懷遷橋鶯語柳綿蠻

蕭索郵亭晝掩關乞火何人歸北舍掃墳此日憶南山草霑細雨宵猶下花滿芳園客未還翹望朝陽1心萬里


1 Nguyên chú: 富春京朝會閣 (Triêu Dương là gác hội triều ở kinh đô Phú Xuân).


幾回夢寐接鵷班

SỨ QUÁN THANH MINH ĐỒNG THỈNH PHONG PHÓ SỨ NGUYỄN ĐỊCH CÁT ĐỀ HOÀI 1

Thiên kiều oanh ngứ liễu miên man, Tiêu tác bưu đình trú yểm quan.

Khất hoả hà nhân quy bắc xá,2 Tảo phần thử nhật ức nam san. Thảo triêm tế vũ tiêu do há,

Hoa mãn phương viên khách vị hoàn. Kiều vọng Triêu Dương tâm vạn lý, Kỵ hồi mộng mị tiếp uyên ban.

Dịch nghĩa:

TIẾT THANH MINH Ở SỨ QUÁN CÙNG THỈNH PHONG PHÓ SỨ NGUYỄN ĐỊCH CÁT GHI NỖI NHỚ

Chim oanh hót ríu rít chuyền cành, tơ liễu bay đầy,

Ở bưu đình vắng vẻ, suốt ngày đóng cửa. Ai người xin lửa trở về nhà phía bắc, Hôm nay gặp ngày tảo mộ, nhớ núi nam. Đêm khuya mưa nhỏ còn rơi đầm cây cỏ,

Hoa nở ngập vườn thơm, khách chửa kịp về. Xa trông điện Triêu Dương, lòng nơi vạn dặm, Bao lần ngủ mơ thấy ở triều ban.

Dịch thơ:

Dời cành oanh hót liễu tơ buông, Xơ xác bưu đình đóng cửa suông. Xin lửa ai người về bắc xá.

Gặp ngày tảo mộ nhớ quê hương. Mưa phùn thấm cỏ, đêm phơ phất,

Hương ngát vườn hoa, khách dặm trường. Xa ngóng Triêu Dương lòng vạn dặm, Triều ban mộng mị giấc hằng vương.


189.

暮春登老君巖和廣西趙竹君題壁原韻城西春暮挈樽瓢

且及行看花柳朝延客洞開雲掛竇整容巖浴雨流橋函關雪散遺青犢榕樹3風高送紫箾遠价北瞻天子氣恒山深阻熱河遙


1 Bài thơ được làm vào năm Quý Hợi (1803), bấy giờ Nguyễn Địch Cát cũng được cử làm phó sứ trong sứ đoàn sang nước Thanh cầu phong do chánh sứ Lê Quang Định dẫn đầu.

2 Khất hỏa: xin lửa, ý chỉ người đi giảng hòa. Ở đây chỉ người làm việc sứ giả.

3 Nguyên chú: 榕樹樓在巖北 (lầu Dung Thụ (cây Dong) ở phía

bắc ngọn núi).

MỘ XUÂN ĐĂNG LÃO QUÂN NHAM HOẠ QUẢNG TÂY TRIỆU TRÚC QUÂN ĐỀ BÍCH NGUYÊN VẬN

Thành tây xuân mộ khế tôn biều, Thả cập hành khan hoa liễu triêu. Diên khách động khai vân quải đậu, Chỉnh dung nham dục vũ lưu kiều. Hàm quan tuyết tán di thanh độc, Dung thụ phong cao tống tử tiêu.

Viễn giá bắc chiêm thiên tử khí, Hằng sơn thâm trở Nhiệt Hà diêu. Dịch nghĩa:

CUỐI XUÂN LÊN NGỌN NÚI LÃO QUÂN, HOẠ THEO NGUYÊN VẦN BÀI THƠ ĐỀ VÁCH CỦA TRIỆU TRÖC QUÂN NGƯỜI QUẢNG TÂY

Cuối xuân nơi tây thành mua vài bầu rượu, Lại kịp đi xem tiết hoa liễu nở.

Mây như mời khách, bay ra khỏi hang núi, vướng vít trên hốc núi,

Mưa như sửa lại vẻ mặt, gội rửa cả ngọn núi, nước chảy qua cầu.

Nơi ải Hàm Quan tuyết tan đi, hé lộ con trâu xanh,

Ở lầu Dung Thụ gió thổi lồng lộng, đưa tiếng sáo vẳng đến.

Xa nhìn lên hướng bắc để xem luồng khí thiên tử,

Nhưng núi Hằng Sơn cao cao ngăn cách Nhiệt Hà xa xôi.

Dịch thơ:

Xuân muộn thành tây rượu một bầu, Cũng xem kịp buổi liễu hoa sao.

Động khơi mây toả, mời du khách, Núi tắm mưa bay, lượn dưới cầu. Dung Thụ gió lồng đưa tiếng sáo, Hàm Quan tuyết chảy lộ non sâu. Xa nhìn phương bắc hơi thiên tử, Vời vợi Nhiệt Hà núi tiếp nhau.


191.

驛舍夢故表弟仁山廿載鴒原濕淚啼 悴荊無復望生稊 臨岐惶惑吾從事 示夢殷勤汝醒迷 存沒忘機悲化蝶 枕檀能恪起燒猊 近來依托憑誰所 得失寒暄未及提

DỊCH XÁ MỘNG CỐ BIỂU ĐỆ NHÂN SƠN

Chấp tải linh nguyên thấp lệ đề,


Tuỳ kinh vô phục vọng sinh đề. Lâm kỳ hoàng hoặc ngô tòng sự, Thị mộng ân cần nhữ tỉnh mê.

Tồn một vong cơ bi hoá điệp,1

Chẩm đàn năng khác khởi thiêu nghê. Cận lai y thác bằng thuỳ sở,

Đắc thất hàn huyên vị cập đề.

Dịch nghĩa:

NƠI TRẠM DỊCH, MỘNG THẤY NGƯỜI EM HỌ ĐÃ MẤT LÀ NHÂN SƠN

Hai chục năm trời, chim chìa vôi thường đẫm lệ kêu,

Cỏ kinh nay thôi hết chờ sinh cỏ đề nữa.

Lúc chia tay dè dặt ngần ngừ, ta theo việc nước,

Trong giấc mộng luôn ân cần, em như tỉnh như mê.

Còn mất đều quên đi, đau lòng chuyện hoá bướm,

Gối thơm thường kính cẩn nằm, bèn dậy đốt chút trầm hương.

Gần đây biết nương cậy vào ai?

Chuyện được mất, khi nói chuyện chưa kịp nhắc đến.

Dịch thơ:

Hai chục năm ròng rỏ lệ thương, Cỏ kinh thôi đợi cỏ đề vươn.

Anh theo việc nước, chia biền biệt, Em giấc tỉnh mê, mộng vấn vương. Còn mất hầu quên, buồn hoá bướm, Gối thơm kính cẩn, dậy xông hương. Dạo này chăng biết ai tâm sự,

Ấm lạnh tình đời, nói dở dang.


192.

遣悶戲呈使部列位2密室遑知行路難

桂城春雨襲人寒紹興可借冲愁酒嘉定常思煿食獾夜燮虎龍燒藥鼎時驅犀象走銅盤邇來虛負江神好綠泛湘灕水滿灘

KHIỂN MUỘN HÍ TRÌNH SỨ BỘ LIỆT VỊ

Mật thất hoàng tri hành lộ nan, Quế thành xuân vũ tập nhân hàn.



1 Hoá điệp: hoá thành bướm, tức điển Trang Chu mơ hoá thành bươm bướm.

2 Nguyên chú: 廣西有犀象石置銅盤中自相角逐客以爲戲 (ở

Quảng Tây có đá tê giác, đặt ở trong mâm đồng, theo tướng người mà lấy sừng đuổi theo khách để làm vui)

Thiệu Hưng khả tá xung sầu tửu, Gia Định thường tư bác thực hoan.3 Dạ tiếp hổ long thiêu dược đỉnh, Thời khu tê tượng tẩu đồng bàn.

Nhĩ lai hư phụ giang thần hảo,

Lục phiếm Tương Ly thuỵ mãn than.4

Dịch nghĩa:

GIẢI SẦU LÀM THƠ ĐÙA, TRÌNH CÁC VỊ TRONG ĐOÀN ĐI SỨ

Phòng kín biết rõ là đường đi khó,

Cái rét lạnh của mưa xuân nơi thành Quế Lâm xói vào người.

Ở Thiệu Hưng có thể mượn rượu tiêu sầu, Còn ở Gia Định thường nhớ món thịt lửng nướng.

Đêm thì hoà hợp hổ rồng ở lò đốt thuốc, Ngày thì xua tê giác chạy trên mâm đồng. Dạo này luống phụ ý tốt của thần sông,

Nước tràn bến bờ, xanh ngắt giòng Tương Ly.

Dịch thơ:

Rõ ràng phòng kín khó vào trong! Thành Quế mưa xuân, héo cõi lòng. Gia Định thường mơ thịt lửng nướng, Thiệu Hưng thời mượn rượu sầu công. Đêm chơi rồng hổ, bên lò thuốc,

Ngày đuổi voi tê, trước đĩa đồng. Nước trướng Tương Ly, bờ bãi thắm, Lâu nay luống phụ ý thần sông!


193.

桂林解纜

陡灘兎伏風鴻飆山岳屏開江水潮象國去冬停繡節桂林今夏發花橈後先雨表葵心篤南北一家氛祲銷從此燕京龍密勿御爐香繞使袍饒

QUẾ LÂM GIẢI LÃM

Đẩu than thố phục phong hồng tiêu, Sơn nhạc bình khai giang thuỵ triều. Tượng Quốc khứ đông đình tú tiết,1



3 Chữ dùng thông với chữ có nghĩa là một giống thú có hình xác nhỏ mà béo, mõm nhọn chân ngắn, đuôi ngắn, thường ở hang, hay đào thủng đê điều. Một số tự điển cho nghĩa là con lửng (Chúng tôi không biết có phải là giống chuột đồng hay không?). Chữ này còn cho nghĩa là một giống lợn lông vàng, gọi là trư hoan.

4 Tương Ly: tức sông Tương và sông Ly. Hai con sông này vốn chung một dòng, từ phía núi Dương Hải theo dòng tây bắc chảy

xuống đến ngọn núi chia thành hai dòng nam bắc. Người xưa vì sự chia dòng của sông mà gọi là Tương Ly (chia nhau), đến người đời sau lại thêm bộ thuỵ vào trước chữ Ly thành Tương Ly (sông Tương, sông Ly).

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí