Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 32


cầu sách chi lao nhi diệc vô chuỳ tạc khắc lũ chi tích. Chu phu tử sở vị tư ta thán vịnh chi dư, hữu tự nhiên chi âm hưởng, tiết tấu tư chi vị dư?

Gia Long ngũ niên mạnh hạ nguyệt cát nhật. Quỳ Giang Nguyễn Địch Cát cẩn đề chí.


Dịch:


BÀI TỰA TẬP THƠ THẬP ANH ĐƯỜNG1

Ngô Nhữ Sơn là người bẩm tính tự nhiên, rất thích vô sự, mà tập thơ có hơn một trăm mấy chục bài, tôi từng trộm lấy làm lạ, suốt cả tập thơ là tiếng sáo trời tự ngân vang, ý đến thì hạ bút, chẳng phí công sức chọn lời tìm chữ đắn đo mà cũng không thấy vết tích của việc khắc chạm mài dũa. Đó là điều mà Chu phu tử2 nói, thở than ngâm vịnh mà có âm hưởng tiết tấu tự nhiên đó chăng?

Ngày lành tháng đầu hè, Gia Long năm thứ năm (1806). Quỳ Giang Nguyễn Địch Cát kính cẩn viết tựa.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

7.

拾英 堂 詩 序

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 32


詩 者 情 之 發 而 神 固 行 其 間, 當 乎 情 莫 不 有 情, 而 情 極 者 唯 神, 則 行 乎 情而 不 囿 乎 情, 雖 作 者 亦 莫 知 其 然 而 然 者, 故 觀 詩 觀 其 神 則 幾 矣 。 汝 山 兵部 大 人 負 中 州英 氣 來 遊 我 越, 方 其 天 造 雲 雷, 自 許 馳 驅 以 輔 成 大 業 。 忠 愛 之情 發 之 詩, 隨 感 隨 發, 筆 與 情 到 而 其 一 般 宕 佚 之 致, 飄 乎 旁 日 月 而 挾 宇 宙,隱 隱 乎 情 之 外, 非 一 篇 一 句 所 可 指 摘 。殆 蒙 莊 所 謂 若 有 真 宰 而 不 得 其 朕 者斯 非 神 之 全 歟 ? 辛 未 春 大 人 奉 特 旨 涖 驩。 存 時 備 驩 學, 錯 荷 青 眼 而 獲 見 之,固 知 越 運 當 興, 上 天 佑 之 爲 生 賢 佐 大 人 之 得 全 於 天 也, 固 有 來 矣, 乃 如 之詩 而 可 以 尋 常 感 發 觀 之 哉 ? 枳 棘 非 鸞 鳳 之 栖, 敝 州 何 幸 快 覩 ! 以 存 之 摧 頹 倦惰, 奉 爲 謦 欬 而 若 有 所 興 起, 焉 是 惡 得 以 無 言 耶 ? 既 承 辱 命 不 敢 自 厭, 謹 綴數 言 於 後 。

嘉 隆 十 年 辛 未 閏 仲 春 月 穀 日乂 安 鎮 督 學 裴 楊 瀝 存 成 拜 書

THẬP ANH ĐƯỜNG THI TỰ

Thi giả, tình chi phát nhi thần cố hành kỳ gian, đáng hồ tình mạc bất hữu tình, nhi tình cực giả duy thần, tắc hành hồ tình nhi bất hựu hồ tình, tuy tác giả diệc mạc tri kỳ nhiên nhi nhiên giả, cố quan thi quan kỳ thần tắc cơ hĩ. (mất một chữ) Nhữ Sơn (mất một chữ) binh bộ đại nhân phụ Trung Châu anh khí lai du ngã Việt, phương kỳ thiên tạo vân lôi, tự hứa trì khu dĩ phụ thành đại nghiệp. Trung ái chi tình phát chi thi, tuỳ cảm tuỳ phát, bút dữ tình đáo nhi kỳ nhất ban đãng dật chi trí phiêu hồ. Bạng nhật nguyệt nhi hiệp vũ trụ, ẩn ẩn hồ tình chi ngoại, phi nhất thiên nhất cú sở khả chỉ trích. Đãi Mông Trang sở vị “nhược hữu chân tể nhi bất đắc kỳ trẫm” giả, tư phi thần chi toàn dư? Tân mùi xuân đại nhân phụng đặc chỉ lị Hoan, Tồn thời bị Hoan học, thác hà thanh nhãn nhi hoạch kiến chi, cố tri Việt vận đương hưng, thượng thiên hựu chi vi sinh hiền tá (mất một chữ) đại nhân chi đắc toàn ư thiên dã, cố hữu lai hĩ, nãi như chi thi nhi khả dĩ tầm thường cảm phát quan chi tai? Chỉ cức phi loan phụng chi thê, tệ châu hà hạnh khoái đổ, dĩ Tồn chi tồi đồi quyện noạ phụng vi khánh khái nhi nhược hữu sở hưng khởi, yên thị ô đắc dĩ vô ngôn da? Ký thừa nhục mệnh bất cảm tự yếm, cẩn xuyết sổ ngôn ư hậu.

Gia Long thập niên Tân Mùi nhuận trọng xuân nguyệt cốc nhật. Nghệ An trấn đốc học Bùi Dương Lịch Tồn Thành bái thư.


Dịch:



1 Trong 10 thế kỷ bàn luận về văn chương, tập 1, Nxb. Giáo dục, 2007, tr. 226, có bài này với tựa đề là “Thơ ưa tự nhiên”.

2 Chu phu tử: tức Chu Hy, học giả thời Tống.


BÀI TỰA TẬP THƠ THẬP ANH ĐƯỜNG1

Thơ là từ tình cảm phát ra mà cái thần vốn nằm trong đó, đáng phải tình thì không gì không có tình, mà tình cùng cực thì chỉ còn thần, cho dẫu ở trong tình nhưng lại không bị tình trói buộc. Vì thế, xem thơ phải xem cái thần của nó thì mới may ra. Ngô Nhữ Sơn Binh bộ đại nhân mang anh khí Trung Châu2 mà sang ở đất Việt ta, gặp khi trời nổi cơn mây mù sấm động, tự hứa lòng rong ruổi mà phò giúp thành đại nghiệp. Cái tình trung quân ái quốc phát lộ vào thơ, theo cảm xúc mà phát ra, câu chữ ý tình đều thấu đáo mà thơ thường phóng dật vô cùng, nương tựa nhật nguyệt, ôm cả vũ trụ, tình cảm chan chứa, nào phải chỉ một bài một câu mà có thể trích được, quả giống như lời Trang Tử nói, “giống như có đấng chân tể nhưng mà không thấy được dấu vết của đó” 3, đó không phải là sự toàn vẹn của thần chăng?

Mùa xuân năm Tân Mùi, đại nhân phụng đặc chỉ đến đất Hoan. Tồn tôi bấy giờ giữ chức đốc học ở Hoan, may nhờ ngài để mắt đến mới được gặp mặt. Mới hay trời cao phò tá nên sinh người hiền tài giúp rập, như Ngô đại nhân được trời thành toàn nên mới đến đây vậy. Còn như thơ của ngài đâu thể đem cảm hứng tầm thường mà xem? Loài cỏ tranh gai góc chẳng phải là chỗ cho loan phụng đỗ nghỉ, tệ châu sao được may mắn mà ngắm nhìn thoả thích thế chăng! Tồn tôi già yếu, biếng nhác, vâng làm hắng đặng, mà khi có điều hứng khởi, thì đâu thể chẳng nói một lời? Đã thừa lệnh nào dám từ khước nên cẩn trọng đề vài lời ở dưới.

Ngày lành tháng trọng xuân, năm nhuận Tân Mùi, Gia Long thứ 10 (1811), Đốc học trấn Nghệ An, Bùi Dương Lịch hiệu Tồn Thành bái thư.


1 Trong tập sách Người xưa bàn về văn chương, bài này có tên là “Tựa Ngô Hiệp trấn Tĩnh Viễn hầu thi tập” trích trong Tồn Trai ốc lậu thoại thi văn, kí hiệu VHv.89. Xin xem Đỗ Văn Hỵ, Người xưa bàn về văn chương, tập 1, Nxb. KHXH Hà Nội, 1993, tr.32-33.

2中 州 Trung Châu: huyện Trung Châu, được đặt ra vào thời Chu, nay là huyện Tân An, tỉnh Hà Nam.

中 洲: địa danh, nằm giữa sông Mân Giang, ở huyện Mân Hầu, tỉnh Phúc Kiến, chia sông Mân Giang thành hai nhánh. Một nhánh dòng

chảy từ bắc sang đông, gọi là sông Mã Đầu, còn gọi là sông Đông Giáp (Hiệp); một nhánh chảy từ tây xuống nam, gọi là sông Tây Giáp, đến phía đông châu này thì hợp dòng đổ ra Ngũ Hổ môn. Ngô Nhân Tĩnh quê Phúc Kiến, nên có thể là chữ 中 州 Trung Châu này.

3 Câu này lấy từ sách Trang tử, Tề vật luận: 若 有 真 宰, 而 特 不 得 其 眹 (giống như có đấng chân tể (trời) mà không thể thấy được dấu

vết của trời)


8.

華 原 詩 草 序


我 越 號 稱 文 獻 。 自 丁 氏 建 國 以 來 與 北 朝 通 好, 使 命 往 必 以 有 名 士 大 夫充 其 選 。 故 其 禮 文 之 交 際, 書 札 之 酬 答, 應 對 之 明 辨 與 沿 途 所 歷 之 詩 篇 吟詠, 往 往 爲 北 朝 縉 紳 起 敬 。 夫 學 者 莫 先 乎 養 氣, 能 養 吾 浩 然 之 氣 則 應 世 酬物 運 之 而 有 餘 。 故 以 小 事 大 禮 也 。 惟 吾 以 剛 方 不 撓 之 氣 臨 之, 不 以 小 自墮, 則 吾 之 氣 常 伸, 而 凡 吾 平 日 之 所 得 所 聞 皆 可 隨 事 應 栽, 斯 前 朝 名 卿 鉅公 所 以 能 重 國 體 而 不 忝 文 獻 之 名 者 在 此 。

皇 朝 嘉 隆 元 年 歲 壬 戌, 天 下 大 定, 奉 駕 禦 昇 龍 城, 首 擇 使 臣 將 命 講 舊典 也 。 晉 齋 黎 公 特 以 兵 部 尚 書 充 求 封 正 介 是 行 也, 侈 舊 邦 之 崇, 稱 創 新 封之 國 號, 事 體 尤 重, 皇 朝 使 命 第 一 科 。 公 以 是 年 十 一 月 持 節 往, 以 次 年 十二 月, 與 天 朝 敕 封 欽 命 使 偕 來, 雖 仗 韾 靈 事 有 成 議 而 公 之 幹 旋 國 事 在 行,實 狀 歷 歷 可 稽 也 宏 故 能 於 人 之 所 難 者 易 之 。 自 出 疆 至 復 命 計 月 十 有 四, 得詩 凡 七 十 餘 首 。 今 讀 其 詩 雍 容 不 迫, 一 本 之 以 溫 柔 敦 厚 之 意, 形 於 咨 嗟 嘆詠 之 間, 不 假 雕 琢 而 其 氣 自 充, 直 可 繼 前 徽 而 光 國 體 。 吾 夫 子 所 謂 誦 詩 三百 篇, 使 於 四 方, 可 以 不 辱 君 命 。 公 其 有 得 於 詩 之 教 歟 ? 抑 愚 又 有 說 焉,文 章 天 地 之 元 氣, 得 之 者 其 氣 直 與 天 地 同 流 。 故 夫 四 時 順 序 雨 露 霑 濡, 天之 文 也 ; 江 河 流 潤, 山 岳 蘊 藏, 地 之 文 也 ; 彌 綸 旋 幹 於 其 間 以 參 贊 化 育 之所 不 及 者, 人 之 文 也 ; 豈 直 爭 奇 閗 艷 於 尺 幅 之 際 哉 ? 公 少 年 英 豪 明 於 大義, 羈 靮 從 君, 以 及 強 仕 惟 能 淨 濟 艱 難 輔 成 大 業, 爲 開 創 中 興 名 臣 又 閱 歷千 萬 里 程 途 完 濟 國 事, 其 爲 文 也, 孰 大 非 其 氣 之 不 淄 不 磷 者 安 得 有 此 ? 今當 兵 革 既 息 四 海 向 平 尤 有 望 於 公 者, 上 爲 德 下 爲 民, 人 才 之 未 薦 者, 明 揚之 善 政 之 未 立 者, 贊 行 之 事 之 利 於 國 家 者, 無 不 爲 之 。 乘 紳 正 笏 不 爲 威 武所 屈, 不 爲 群 議 所 搖, 以 措 天 下 於 泰 山 之 安 立, 千 萬 年 不 朽 之 事 業, 斯 之謂 經 天 緯 地 之 文 。 夫 是 則 我 南 交 之 文 獻 不 獨 北 朝 所 取 重 而 文 獻 之 澤 及 於 國人, 將 使 史 氏 書 之,後 人 歌 誦 之,乘 之, 金 石 而 無 窮 者 詩 云, 乎 哉 余 小 子 雖駑 鈍 請 執 筆 從 事 於 斯 是 爲 序 。

旹 嘉 隆 六 年 歲 在 丁 卯 仲 秋 既 望 晚 生 清 華 玉 山 翰 林 院 制 誥 黎 良 慎 拜 書 于

京 邸


HOA NGUYÊN THI THẢO TỰ

Ngã Việt hiệu xưng văn hiến, tự Đinh thị kiến quốc dĩ lai, dữ bắc triều thông hiếu, sứ mệnh vãng tất dĩ hữu danh sĩ đại phu sung kỳ tuyển. Cố kỳ lễ văn chi giao tế, thư trát chi thù đáp, ứng đối chi minh biện dữ diên đồ sở lịch chi thi thiên ngâm vịnh, vãng vãng vi bắc triều tấn thân khởi kính. Phù học giả mạc tiên hồ dưỡng khí, năng dưỡng ngô hạo nhiên chi khí tắc ưng thế thù vật vận chi nhi hữu dư, cố dĩ tiểu sự đại lễ dã. Duy ngô dĩ cương phương bất nạo chi khí, lâm chi, bất dĩ tiểu tự đoạ, tắc ngô chi khí thường thân, nhi phàm ngô bình nhật chi sở đắc sở văn giai khả tuỳ sự nhi ứng tài, tư tiền triều danh khanh cự công sở dĩ năng trọng quốc thể nhi bất thiểm văn hiến chi danh giả tại thử.

Hoàng triều Gia Long nguyên niên tuế Nhâm Tuất, thiên hạ đại định, phụng giá ngự Thăng Long thành thủ trạch sứ thần tương mệnh giảng cựu điển dã. Tấn Trai Lê công đặc dĩ binh bộ thượng thư sung cầu phong chính giới thị hành dã, xỉ cựu bang chi sùng xưng, sáng tân phong chi quốc hiệu, sự thể vưu trọng, hoàng triều sứ mệnh đệ nhất khoa, công dĩ thị niên thập nhật nguyệt trì tiết vãng dĩ thứ niên thập nhị nguyệt, dữ thiên triều sắc phong khâm mệnh sứ hài lai, tuy trượng thanh linh sự hữu thành nghị, nhi công chi cán tuyền quốc sự tại hành, thực trạng lịch lịch khả kê dã hoành cố, năng ư nhân chi sở nan giả dị chi. Tự xuất cương chí phục mệnh kế nguyệt thập hữu tứ, đắc thi phàm thất thập dư thủ. Kim độc kỳ thi, ung dung bất bách, nhất bản chi dĩ ôn nhu đôn hậu chi ý, hình ư tư ta thán vịnh chi gian, bất giả điêu trác nhi kỳ khí tự sung, trực khả kế tiền huy nhi hậu quang quốc thể. Ngô phu tử sở vị, „tụng thi tam bách thiên, sứ ư tứ phương, khả dĩ bất nhục quân mệnh‟. Công kỳ hữu đắc ư thi chi giáo dư? Ức ngu hựu hữu thuyết yên, văn chương thiên địa chi khí, đắc chi giả, kỳ khí trực dữ thiên địa đồng lưu. Cố phù tứ thời thuận tự vũ lộ triêm nhu, thiên chi văn dã; giang hà lưu


nhuận, sơn nhạc uẩn tàng, địa chi văn dã; di luân tuyền cán ư kỳ gian dĩ tham tán hoá dục chi sở bất cập giả, nhân chi văn dã; khởi trực tranh kỳ đấu diễm ư xích bức chi tế tai? Công thiếu niên anh hào, minh ư đại nghĩa, ki đích tùng quân, dĩ cập cường sĩ, duy năng tịnh tế gian nan, phụ thành đại nghiệp, vi khai sáng trung hưng danh thần, hựu duyệt lịch thiên vạn trình đồ, hoàn tế quốc sự, kỳ vi văn dã, thục đại phi kỳ khí chi bất truy bất lân giả, an đắc hữu thử? Kim đương bình cách ký tức, tứ hải hướng bình, vưu hữu vọng ư công giả, thượng vi đức hạ vi dân, nhân tài chi vị tiến giả, minh dương chi thiện chính chi vị lập giả, tán hành chi sự chi lợi ư quốc gia giả, vô bất vi chi. Thừa thân chính hốt bất vị uy vũ sở khuất, bất vị quần nghị sở dao, dĩ thố thiên hạ ư thái sơn chi an, lập thiên vạn niên bất hủ chi sự nghiệp, tư chi vị kinh thiên vĩ địa chi văn phù. Thị tắc ngã Nam giao chi văn hiến bất độc Bắc triều sở thủ trọng, nhi văn hiến chi trạch ư quốc nhân tương sứ sử thị thư chi, hậu nhân ca tụng chi, thừa chi kim thạch nhi vô cùng giả. Thi vân, Hô tai dư tiểu tử tuy nô độn, thỉnh chấp bút tùng sự ư tư thị vi tự.

Thời Gia Long lục niên tuế tại Đinh Mão Trọng thu kí vọng Vãn sinh Thanh Hoa Ngọc Sơn Hàn lâm viện chế cáo Lê Lương Thận bái thư vu kinh kỳ.


Dịch:

BÀI TỰA TẬP THƠ HOA NGUYÊN THI THẢO

Nước Việt ta hiệu xưng là nước văn hiến, từ khi nhà Đinh dựng nước đến nay, giao hảo với Bắc triều, sứ giả qua lại, ắt dùng những bậc danh sĩ, đại phu. Bởi thế, việc giao tiếp lễ nghĩa, thù đáp thư từ, ứng đối bàn luận cùng với việc ngâm vịnh thơ ca trên đường đi sứ thường khiến cho nhân sĩ Bắc triều sinh lòng kính ngưỡng.

Phàm việc học, không gì trước tiên bằng việc dưỡng khí, một khi có thể dưỡng được cái khí hạo nhiên của mình thì việc ứng xử ở đời, giao tiếp với người, tốt đẹp có thừa, nên việc nhỏ mà lễ lớn. Riêng tôi lấy cái khí cứng rắn bất khuất mà xử việc thời không vì chuyện nhỏ mà tự hạ mình, bởi khí của tôi thường buông thả mà bình sinh có được kiến văn và sở đắc đều do tuỳ sự mà ứng đối. Đó là lý do các bậc công khanh tiếng tăm ở tiền triều biết trọng quốc thể mà không phạm tới cái danh văn hiến.

Năm Nhâm Thân, Gia Long nguyên niên triều ta, thiên hạ đại định, phụng giá đến thành Thăng Long tuyển chọn sứ thần để phụng mạng xem xét cựu điển. Ông Lê Tấn Trai làm chức Binh bộ thượng thư sung làm chánh sứ phái đoàn cầu phong. Phải giữ tôn xưng của nước cũ, lại cầu phong quốc hiệu mới, sự việc vô cùng trọng đại, vì hoàng triều mà đi sứ lần thứ nhất. Tháng 11 năm ấy, ông cầm cờ tiết mà đi, cho đến tháng 12 năm sau, khâm mệnh sứ của thiên triều sang sắc phong, tuy cậy uy thanh, bàn bạc sự việc nhưng ông vẫn làm tròn quốc sự trong chuyến đi sứ, việc làm, thực trạng rành rành có thể kê khảo. Ông khí khái lỗi lạc, chất chứa thì to lớn, phát ra thì xa rộng, nên có thể làm dễ dàng những việc mà người ta thấy là khó. Lúc xuất sứ đến phục mệnh chừng hơn mười bốn tháng mà thơ đến hơn bảy chục bài. Nay đọc thơ ông, ung dung thong thả, suốt tập đều lấy ý ôn, nhu, đôn, hậu, hình ảnh nằm trong lời ngâm vịnh thở than, không tì vết chạm trổ mà khí thơ tự đầy tràn, thật có thể kế thừa tiền nhân mà làm rạng rỡ quốc thể. Phu tử nói rằng: đọc Thi ba trăm bài xuất sứ bốn phương có thể không làm nhục quân mệnh. Phải chăng ông được lời dạy ấy từ Thi chăng? Tôi ngu muội lại nghe nói rằng, văn chương là nguyên khí của trời đất, người được khí ấy có thể sống cùng trời đất. Thế nên, bốn mùa hoà thuận, mưa móc thấm nhuần, là văn của trời; sông suối chảy trôi, núi non uẩn tàng là văn của đất; tổ chức xếp đặt ở giữa để tham tán những điều bất cập của tạo hoá là văn của người; há đâu cứ tranh kỳ lạ, khoe đẹp đẽ trong khoảng thước tấc mà thôi? Ông thuở nhỏ đã có chí anh hào, làm sáng đại nghĩa, ruổi ngựa theo vua cho đến khi lớn lên làm quan thì có thể vượt mọi gian nan phò giúp thành đại nghiệp, là bậc danh thần khai sáng nền trung hưng, lại trải đường xa ngàn dặm để hoàn thành việc nước, ấy là văn vậy, còn gì lớn hơn? Nếu không phải là người có khí độ trôi chảy không ngừng thì làm sao có được như vậy. Nay binh lửa đã ngừng, bốn phương bình lặng, điều mà trông mong nhất ở ông, là trên vì đức nghiệp, dưới vì dân, nhân tài chưa được tiến cử; nền chính trị tốt đẹp chưa làm cho rạng rỡ; giúp đỡ những việc làm có lợi cho nước nhà, thì không việc gì mà không làm, khi làm quan cầm hốt thì chẳng vì uy vũ mà khuất phục, chẳng vì lời bàn nghị mà dao động, vì lo toan thiên hạ vững vàng như núi Thái, sự nghiệp bất hủ muôn năm, ấy gọi là văn của trời ngang đất dọc. Đó là văn hiến của đất Nam ta, chẳng riêng gì bên Bắc triều mới có, nên văn hiến thấm nhuần đến cả mọi người trong nước khiến cho những nhà viết sử đời sau


ca tụng vâng theo, cái mà còn lại đến vô cùng ấy là thơ ca chăng? Tôi là bậc tiểu bối, tuy tài hèn thô lậu xin được chấp bút theo hầu ở đây mà làm bài tựa này.

Đầu thu năm Đinh Mão, Gia Long năm thứ 6 (1807),Vãn sinh Thanh Hoa, Ngọc Sơn Lê Lương Thận chức Hàn lâm viện chế cáo bái viết ở Kinh kỳ.


9.

嘉 定 弎 家 詩 序


余 於 庚 辰 夏 自 嘉 定 城 閫 來 亰 拜 臨 國 孝 。仍 奉 畱 亰 復 理 部 務 。適 亡 友 黎 户部 次 子 光 瑶, 吳 工 部 弎 子 國 珪 偕 來 叅 見 。各 將 其 父 詩 集 呈 請 付 梓 。余 宿 與 弍友 唱 酬, 稔 知 其 篇 什 汗 充 。今 僅 覯 千 百 之 十 弌, 甚惋 訝 而 窮 叩 之, 俱 以 散 逸自 前 經 先 友 筐 緗 揀 存 止 此 爲 對 。余 再 四 沈 思 曰 : 吾 儕 之 事 業 心 蹟 自 有 旂 常簡 策, 在 顧 不 假 乎 詩 文 以 炫 耀 于 世 也 。然 文 者 心 之 華, 其 性 情 之 正 偏, 士 學之 醕 疵, 須 此 以 見 其 梗 槩 焉 。况 吾 儕 之 知 世 者 初 以 文, 斯 人 萎 而 文 不 傳, 恐將 來 翰 藻 品 評 無 片 言 隻 字 之 可 徵, 何 以 噤 他 歧 倖 進 嘵 嘵 之 聲 口 者 。欲 謀 爲 分壽 梨 枣, 各 爲 鎭 家 物, 柰 卷 袠 無 多 不 莊 几 案 。回 念 :吾 儕 生 平 旣 攜 手 以 遊 亦聯 鐮 而 登 仕, 出 使 入 朝, 無 往 而 不 志 同 肩 竝, 則 今 詩 之 刻 應 合 而 弌 之, 庶 終始 克 諧, 存 殁 無 閒, 於 義 爲 得 矣 。旹 艮 亝 集 業 已 梓 行, 遂 綴 鐫 華 原 、拾 英 弍集 于 其 次, 總 顏 曰 ︰嘉 定 弎 家 詩 。 板 印 旣 成, 質 諸 識 者, 迺 分 給 吾 弎 家 子 各藏 其 本 。籌 吾 儕 之 子 若 孫, 設 不 能 個 個 皆 跨 竈 充 閭, 克 繩 步 武, 定 世 世 中 自不 少 弌 尋 常 承 家 讀 書 兒 知 祖 先 之 手 澤 可 珍, 爲 世 守 愛 護 而 圖 存 之, 必 不 至 於覆 釜 糊 窗 之 可 虞 。斯 鼎 足 兔 穴 之 長 計 耳 。惟 弍 友 冥 中 之 靈 有 以 默 佑 啓 沃 我 兒孫 。 余 若 何 靳 費 憚 勞 而 不 即 成 全 其 美 事 耶 ?

明 命 弎 年 仲 夏 月 穀 旦

協 辨 大 學 士 領 吏 部 尚 書 兼 領 兵 部 尚 書 充 國 史 舘 副 總 裁 加 弍 給 紀 錄 弌 次安 全 侯 鄭 懷 德

GIA ĐỊNH TAM GIA THI TỰ

Dư ư Canh Thìn hạ (1820) tự Gia Định thành khổn lai kinh bái lâm Quốc hiếu, nhưng phụng lưu kinh phục lý bộ vụ. Thích vong hữu Lê Hộ bộ thứ tử Quang Dao, Ngô Công bộ tam tử Quốc Khuê, giai lai tham kiến, các tương kỳ phụ thi tập trình thỉnh phó tử. Dư túc dữ nhị hữu xướng thù, nẫm tri kỳ thiên thập hãn sung, kim cận cấu thiên bách chi thập nhất, thậm uyển nhạ, nhi cùng khấu chi, câu dĩ tán dật tự khẳng kinh tiên hữu khuông tương giản tồn chỉ thử vi đối. Dư tái tứ trầm tư viết: Ngô sài chi sự nghiệp tâm tích, tự hữu kỳ thường giản sách, tại cố bất giả hồ thi văn dĩ huyễn diệu vu thế dã. Nhiên văn giả tâm chi hoa, kỳ tính tình chi chính thiên, sĩ học chi thuần tỳ, tu thử dĩ kiến kỳ ngạnh khái yên. Huống ngô sài chi tri thế giả sơ dĩ văn, tư nhân uỵ nhi văn bất truyền, khủng tương lai hàn tảo phẩm bình vô phiến ngôn chích tự chi khả trưng, hà dĩ cấm tha kỳ hãnh tiến, hiêu hiêu chi thanh khẩu giả. Dục mưu vi phân thọ lê táo, các vi trấn gia vật, nại quyển trật vô đa, bất trang kỵ án. Hồi niệm, ngô sài sinh bình, ký huề thủ dĩ du tường, diệc liên liêm nhi đăng sĩ, xuất sứ nhập triều, vô vãng nhi bất chí đồng kiên tịnh, tắc kim thi chi khắc, ứng hợp nhi nhất chi, thứ chung thuỵ khắc hài, tồn một vô gián, ư nghĩa vi đắc hĩ giả. Thời Cấn Trai nghiệp dĩ tử hành, toại xuyết tuyên Hoa Nguyên, Thập Anh nhị tập vu kỳ thứ, tổng nhan viết Gia Định tam gia thi. Bản ấn ký thành, chất chư thức giả, nãi phân cấp ngô tam gia tử các tàng kỳ bản. Trù ngô sài chi tử nhược tôn, thiết bất năng cá cá giai khoa táo sung lư, khắc thằng bộ vũ, định thế thế trung tự bất thiểu nhất tầm thường thừa gia độc thư nhi tri tổ tiên chi thủ trạch khả trân, vi thế thủ ái hộ nhi đồ tồn chi, tất bất chí ư phúc phủ hồ song chi khả ngu. Tư đỉnh túc thố huyệt chi trường kế nhĩ. Duy nhị hữu minh trung chi linh hữu dĩ mặc hựu khải ốc ngã nhi tôn. Dư nhược hà cận phí đạn lao nhi bất tức thành toàn kỳ mỷ sự da?

Minh Mệnh tam niên trọng hạ nguyệt cốc đán,


Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Lại bộ Thượng thư kiêm lĩnh Binh bộ Thượng thư sung Quốc sử quán Phó tổng tài gia nhị cấp Ký lục nhất thứ An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức.

(Hiệp biện Đại học sĩ Trịnh thị)


Dịch:

BÀI TỰA TẬP THƠ GIA ĐỊNH TAM GIA

Vào mùa hạ năm Canh Thìn (1820), tôi từ thành Gia Định được chỉ vào kinh bái lễ Quốc hiếu, rồi phụng mệnh ở lại kinh nắm giữ việc ở bộ vụ. Vừa lúc ấy con thứ của người bạn đã mất Lê Hộ bộ (Lê Quang Định) là Quang Dao, con thứ ba của Ngô Công bộ (Ngô Nhân Tĩnh) là Quốc Khuê đều đến tham kiến, mỗi người đều dâng tập thơ của cha mình xin nhờ tôi khắc bản. Trước đây tôi cùng hai bạn xướng thù vịnh hoạ nên biết thơ của họ rất nhiều1, nay chỉ còn độ một phần trăm, mười phần nghìn thì kinh ngạc xót xa, rồi gạn hỏi suy xét hết, thì đều nói vì mất mát, qua sự tìm tòi chọn nhặt trong hòm rương của hai bạn trước đây chỉ còn được bấy nhiêu. Tôi lại trầm tư nghĩ rằng: sự nghiệp vết tích của chúng tôi, hẳn có quốc sử ghi chép đánh giá, mà vốn không mượn thơ văn để huênh hoang với đời. Nhưng văn là tinh hoa của lòng, là sự thẳng ngay hay tà vạy của tính tính, là vết tích tốt xấu của bậc sĩ học, cũng nhờ đó mà thấy được đại khái. Huống khi bọn tôi có tiếng ở đời, ban đầu nhờ vào thơ văn, người như thế khi mất đi, mà văn chương không truyền lại, e tương lai phẩm bình văn chương chẳng có lấy một lời một chữ làm chứng, thì lấy gì mà ngăn chặn người đời điều tiếng bọn tôi thăng tiến bằng con đường khác? Muốn đem tác phẩm khắc in để truyền lâu dài2, cũng để mỗi nhà làm vật trấn bảo, hiềm vì tác phẩm không nhiều, để chẳng được đẹp bàn đẹp án. Bao lần nghĩ, bọn chúng tôi sinh bình cùng dắt tay vào trường học, cùng một lúc ra làm quan, khi đi sứ lúc vào chầu, chẳng bao giờ chẳng cùng vai cùng chí. Vậy thì ngày nay, tập thơ được san khắc cũng nên hợp làm một, như vậy là trước sau hài hoà, kẻ sống người còn cũng không bị chia cách, thật hợp với điều nghĩa lắm vậy. Bấy giờ tập thơ Cấn Trai (của tôi) đã khắc xong lưu hành, bèn đem khắc thêm hai tập Hoa Nguyên, Thập Anh đưa vào phía sau, đặt tựa chung là Gia Định tam gia thi. Bản in khắc xong, trình cùng các bậc thức giả, rồi chia cho con của ba nhà, mỗi người giữ một bản. Nếu như con cháu chúng tôi, giả như không thể được tiếng “con hơn cha” 3 rỡ ràng dòng họ4, có thể nối bước cha ông, chắc hẳn trong những đời sau sẽ không thiếu có đứa tầm thường nối được nếp nhà mà học hành, biết được sách vở bút tích (dấu vết)5 của tổ tiên là đáng quý, vì đời mà giữ gìn nâng niu lưu trữ chúng, ắt không đến nỗi phải đem chúng để úp nồi dán cửa thì cũng vui. Như thế có thể đủ để làm kế hay bền vững lâu dài vậy6. Mong linh hồn hai bạn ở cõi trời ngầm phò giúp cho con cháu ta. Tôi đây cũng đâu nề hà sức già mệt nhọc mà không thành toàn ngay việc tốt đẹp này.

Ngày lành tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 3 (1822)

Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh chức Lại bộ Thượng thư, kiêm lĩnh chức Binh bộ Thượng thư, sung chức Phó Tổng tài Quốc sử quán gia nhị cấp Ký lục nhất thứ, An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức.


1 Dịch từ chữ Hãn sung: chữ xuất từ câu “hãn ngưu sung đống”. Lục Văn Thông tiên sinh mộ biểu của Liễu Tông Nguyên có câu: “Sách của ông, để thì chất cao đến xà nhà, chuyển ra ngoài thì trâu ngựa chở cũng đổ mồ hôi”. Về sau người ta dùng từ này để chỉ sách vở nhiều.

2 Thời xưa người ta thường dùng gỗ cây lê và cây táo để khắc bản in sách, vì vậy về sau lê táo dùng để chỉ bản khắc sách.

3 Con hơn cha dịch từ chữ Khoa táo: Mục Khoa táo trong sách Thiên lộc thức dư của Cao Sĩ Kỳ dẫn Hải khách nhàn đàm rằng: “Trên

móng trước của ngựa có hai khoảng trống gọi là táo môn. Phàm những con ngựa hay có dấu chân sau vượt lên cả dấu chân trước, người ta gọi là vượt cả táo môn (khoa táo). Về sau dùng để chỉ con hơn cha. Cha được ví như bếp, trên bếp thường đặt nồi, nên sinh con hơn cha được gọi là “khoa táo”.

4 Làm rạng rỡ dòng họ dịch từ Sung lư. Sách Tấn thư, Giả Sung truyện chép: “Giả Sung tên tự là Công Lư, … cha ông là Quỳ, về già mới sinh được Sung, ý muốn sau này làm rạng rỡ tổ tiên nhà cửa nên đặt tên tự là Lư”. Về sau, chữ này dùng để chúc mừng việc sinh con. (Hán

ngữ đại từ điển (thượng, trung, hạ), Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, bản in lần thứ 4, Thượng Hải, 2005, quyển thượng, tr.848).

5 Dấu vết dịch từ chữ Thủ trạch, cũng như nói thủ hãn (dấu tay), sau thường dùng để chỉ bút tích, hoặc di vật của tổ tiên để lại. Thiên Ngọc tảo trong Lễ ký có chép: “Cha mất mà con không thể đọc được sách của cha, ấy là vì dấu tay của người còn ở đó”. Khổng Dĩnh Đạt chú

rằng: “Ý nói sách của cha còn lưu dấu tay của cha khi còn sống đã cầm, nên không nỡ đọc”.

6 Kế hay dịch từ chữ Thố huyệt: hang thỏ. Thỏ làm hang thường làm nhiều hang để có đường chạy thoát. Bền vững lâu dài dịch ý từ chữ Đỉnh túc: chân vạc. Tục ngữ có câu: “Dù ai nói ngã nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Ở đây ý chỉ vững chắc và khôn

khéo.


PHỤ LỤC 3

TRÍCH DỊCH THƠ GIA ĐỊNH TAM GIA

(Do khuôn khổ có hạn, chúng tôi chỉ trích dịch những bài thơ chưa được công bố ở các công trình khác. Riêng với thơ Lê Quang Định, chúng tôi chỉ trích những bài có phần bình chú của Nguyễn Du và Ngô Thì Vị. Các số đánh ở đầu bài thơ là số thứ tự từng bài theo các tập thơ.)


艮齋詩集 欽差吏部尚書

行嘉定城協總鎮 安全侯鄭懷德甫輯

CẤN TRAI THI TẬP

KHÂM SAI LẠI BỘ THƯỢNG THƯ HÀNH GIA ĐỊNH THÀNH HIỆP TỔNG TRẤN

AN TOÀN HẦU TRỊNH HOÀI ĐỨC



艮齋退食追編欽差吏部尚書 行嘉定城協總鎮

安全侯鄭懷德甫輯

CẤN TRAI THOÁI THỰC TRUY BIÊN

Khâm sai Lại bộ Thượng thư hành Gia Định thành Hiệp Tổng trấn An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức phủ tập


丙午年

BÍNH NGỌ NIÊN (1786)

30.

寄懷黃玉蘊晦山真臘行園梅摽白菊抽黃

蕃榻塵生草夢忙得路鵾鵬南徙海離群鴻雁夜鳴霜石城醉訪鐘埋蹟1

金塔閒評布繫方2勞我庾樓頻倚望淒迷嶺樹水蒼茫

KÝ HOÀI HUỲNH NGỌC UẨN HỐI SƠN CHÂN LẠP HÀNH

Viên mai phiêu bạch cúc trừu hoàng, Phồn tháp trần sinh thảo mộng mang. Đắc lộ côn bằng nam tỵ hải,

Ly quần hồng nhạn dạ minh sương. Thạch Thành tuý phỏng chung mai tích, Kim Tháp nhàn bình bố hệ phương.

Lao ngã dữu lâu tần ỵ vọng,

Thê mê lĩnh thụ thuỵ thương mang.

Dịch nghĩa:

GỬI NỖI LÕNG ĐẾN HỒI SƠN HUỲNH NGỌC UẨN ĐI CHÂN LẠP

Vườn mai nở trắng, cúc nở vàng,

Giường họ Phồn3 đóng bụi, giấc cỏ bận rộn, Chim bằng được gió bay từ nam sang biển bắc, Hồng nhạn xa bầy cất tiếng gọi trong đêm sương.

Chốn thành Đá, say hỏi dấu vết chôn chuông,



1 Nguyên chú: 高綿國西南荒山中帝釋寺爲古佛坐化之處行一日程至一古城相傳爲古西戎大秦城字匾漫滅其宮殿欄廡皆白石雕琢光瑩精巧庭上人行聞如鐘聲或云下有埋鐘虛懸機械足履石則機動鐘鳴云 (Trong núi hoang ở phía tây nam

nước Chân Lạp có chùa Đế Thích, là nơi đức Phật ngày xưa toạ hoá, đi đường khoảng một ngày thì đến một toà thành cổ, tương truyền là thành Đại Tần Tây nhung, nét chữ đã mờ như mất hết, hành lang cung điện đều dùng đá trắng, tô vẽ điêu khắc tinh xảo, người đi trên sân nghe như có tiếng chuông kêu, có người cho rằng phía dưới có treo hệ thống chuông, chân người giẫm lên, máy chuông vang động nên phát ra tiếng).


2 Nguyên chú: 南榮東岸有一古塔上嵌金瓢號爲金塔亦名金臺俗傳在昔洚水有塔漂流胡僧以布絲線九條作法繫之絆住於此今成阜云 (mé đông Nam Vang có tháp cổ, phía trên tháp

có khảm một cái hồ vàng, gọi là Kim tháp (tháp Vàng), còn gọi là Kim đài (đài Vàng), tục truyền ngày xưa lúc nước lụt, có chiếc tháp trôi đến, vị sư người Hồ (Ấn Độ) dùng chín sợi vải lụa làm phép buộc tháp lại ở đây, nay trở thành một cái gò).

3 Dịch từ Phồn tháp. Trần Phồn có chiếc giường chỉ giành cho bạn của mình là Từ Trĩ nằm mỗi khi đến chơi, Từ Trĩ về thì ông

lại treo chiếc giường lên.


Ở tháp Vàng, tán chuyện cách dùng vải lụa buộc tháp.

Ta nhọc nhằn lên lầu không trông ngóng,

Cây cối núi non mờ mịt, sông nước mênh mông.

Dịch thơ:

Vườn mai nở trắng, cúc khoe vàng, Bụi bám giường Phồn, giấc cỏ khan. Tung sóng côn bằng qua biển bắc, Xa bầy hồng nhạn gọi đêm sương.

Chôn chuông, say hỏi nơi Thành Đá, Buộc vải, thường han chốn Tháp Vàng. Đứng tựa lầu cao mòn mỏi ngóng,

Mịt mờ non núi, nước tràng giang.


31.

范如登登第後再娶同諸友即席書贈嫋嫋東風解凍吹

范庭更長合歡枝瓊花自古歸黃甲素練而今屬翠眉針芥嘉君逢盛事杯盤醉我慶佳期登筳樂共操鉛槊還恐鏤冰對項斯

PHẠM NHƯ ĐĂNG ĐĂNG ĐỆ HẬU TÁI THÖ ĐỒNG CHƯ HỮU TỨC TỊCH THƯ TẶNG

Niểu niểu đông phong giải đống xuy, Phạm đình cánh trưởng hợp hoan chi. Quỳnh hoa tự cổ quy hoàng giáp,

Tố luyện nhi kim thuộc thuý my. Châm giới gia quân phùng thịnh sự, Bôi bàn tuý ngã khánh giai kỳ.

Đăng diên lạc cộng thao duyên sáo, Hoàn khủng lũ băng đối Hạng Tư. Dịch nghĩa:

Mâm chén tôi say mừng thời buổi tốt đẹp. Vào tiệc cùng vui cầm lấy đôi đũa bạc, Lại sợ nhọc công nói chuyện Hạng Tư. 3


33.

商人婦

自從夫壻素封尋香燼燈殘冷繡衾破夢鸎翻情緒惡織愁柳鎖懊憹深灼龜海阻歸期誤寄雁山高去信沉應悔囊空常聚首免儂頻嚼石蓮心

THƯƠNG NHÂN PHỤ

Tự tòng phu tế tố phong tầm, Hương tẫn đăng tàn lãnh tú khâm. Phá mộng anh phiên tình tự ác, Chức sầu liễu toả áo nùng thâm. Chước quy hải trở quy kỳ ngộ, Ký nhạn sơn cao khứ tín trầm.

Ưng hối nang không thường tụ thủ, Miễn nùng tần tước thạch liên tâm. Dịch nghĩa:

VỢ NGƯỜI LÁI BUÔN

Từ khi chồng đi tìm kế làm ăn, 4

Hương nhạt đèn tàn, chăn thêu lạnh lùng. Oanh chuyền làm tan giấc mộng, tâm tình khó chịu,

Liễu thắm dệt nỗi sầu, buồn bã thêm sâu.

Đốt mai rùa bói, biển cả xa vời, ngày về lỡ hẹn,

Gửi thư, núi cao, thư đi biệt tăm.

Chợt hối hận, thà túi không mà kề đầu sát cánh,

Để em khỏi thường nhai đá với tim sen.

Dịch thơ:

PHẠM NHƯ ĐĂNG SAU KHI THI ĐỖ LẤY

THÊM VỢ, CÙNG BẠN BÈ MỞ TIỆC, VIẾT TẶNG.

Gió xuân mơn man thổi tan băng tuyết lạnh giá,

Sân nhà họ Phạm lại sinh sôi cây hợp hoan. 1

Xưa nay hoa quỳnh vẫn thuộc về bậc hoàng giáp,

Lụa trắng đến giờ vẫn thuộc về người mày xanh.

Mũi kim hạt cải mừng cho anh gặp việc lớn, 2


1 Dịch từ “hợp hoan chi”. Cây hợp hoan, tức cây me. Ở đây tác giả chơi chữ, chỉ việc Phạm Đăng Hưng lấy vợ.

2 Mũi kim, hạt cải dịch từ “châm giới”. Kinh Dịch: Không phải chỉ có những vật đồng loại mới có sự tương cảm, mà giữa các

vật khác loại cũng có sự tương cảm, như nam châm hút cây kim,

hổ phách hút hạt cải… Về sau kim cải dùng để chỉ tính tình hoà hợp tìm đến nhau, chỉ tình vợ chồng gắn bó.

3 Nhọc công vô ích dịch ý từ “Lũ băng” (khắc lên băng). Xuất

từ câu “hoạ chi lũ băng” (vẽ màu khắc lên băng giá), một mai băng tan, bức vẽ cũng chẳng còn, ý chỉ nhọc công vô ích. Hạng Tư, tự Tử Thiên, tên khác là Ích Chương, nhà thơ ẩn sĩ đời Đường, hơn ba mươi năm ở ẩn tại núi Chiêu Dương. Dương Kính Chi có bài thơ tặng ông rằng: “Kỵ độ kiến quân thi tổng hảo, Cập quan tiêu cách quá vu thi. Bình sinh bất giải tàng nhân thiện, đáo xứ phùng nhân thuyết Hạng Tư” (Mấy lần xem thơ anh đều thấy hay, nay gặp được người, thấy nhân cách của anh còn hơn cả thơ. Bình sinh tôi chẳng biết giấu cái hay của người đời, nên gặp ai ở đâu tôi cũng nói về Hạng Tư).Ở đây, tác giả Trịnh Hoài Đức có ý khen ngợi Phạm Như Đăng.

4 Thoát ý từ chữ “Tố phong”: người không có chức tước, đất phong nhưng giàu có. Sử ký, Hoá thực liệt truyện nói: “kẻ

không có bổng lộc ban theo phẩm trật, không có thu nhập trên đất phong theo chức tước, mà sướng không kém gì người có bổng lộc, gọi là tố phong”. Ở đây tác giả muốn nói đến việc đi buôn.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/02/2023