4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Công tác văn bản học: Tiếp nhận thành quả của những công trình nghiên cứu trước đây, chúng tôi tiếp tục khảo sát, chỉnh lý văn bản thơ Tam gia hiện đang lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
Đối với tác phẩm Thập Anh thi tập của Ngô Nhân Tĩnh và Hoa Nguyên thi thảo của Lê Quang Định vì chỉ có một truyền bản duy nhất nên công tác xử lý văn bản không có gì đáng nói; nhưng với Cấn Trai thi tập của Trịnh Hoài Đức bởi có nhiều bản khác nhau, do đó chúng tôi dựa vào bản khắc in có ký hiệu A.780 làm bản trục, đồng thời tham chiếu với bản khắc in mang ký hiệu A.1392 để bổ sung, sắp xếp và tái hiện lại diện mạo của thi tập Gia Định tam gia thi của ba tác giả, bản khắc in năm 1822. Trong quá trình xử lý tư liệu, chúng tôi còn tham khảo thêm bản in Cấn Trai thi tập do Trần Kinh Hoà cho in vào năm 1963 tại Hong Kong. Đồng thời, chúng tôi vận dụng phương pháp phiên dịch tiến hành dịch thuật thơ Gia Định tam gia và công bố văn bản trong phần Phụ lục của luận án để làm tư liệu trích dẫn, nghiên cứu trong luận án.
4.2. Xuất phát từ yêu cầu mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp tiểu sử, phương pháp thực chứng lịch sử, phương pháp giải thích học: cùng được vận dụng để tìm hiểu tác phẩm thông qua tiểu sử tác giả và ngược lại, đồng thời muốn hiểu đúng tác phẩm không thể không bắt đầu từ những sự kiện lịch sử, cũng như việc nắm rõ ngữ nghĩa ngôn ngữ bởi thơ Gia Định tam gia được viết bằng chữ Hán. Bên cạnh đó, để tránh cứng nhắc giáo điều chúng tôi còn vận dụng phương pháp trực giác để có những đánh giá sinh động về đối tượng.
Ngoài ra chúng tôi còn vận dụng các phương pháp và thao tác khác như phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, hệ thống để đưa ra những nhận định có giá trị và ý nghĩa khi nghiên cứu về Gia Định tam gia trong toàn cảnh nền văn học Hán Nôm Nam Bộ.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Về mặt tư liệu: Chúng tôi đã xử lý và phiên dịch hầu như hoàn chỉnh tư liệu thơ Gia Định tam gia một cách có hệ thống từ nguồn tư liệu gốc Hán Nôm. Những bài tự, bạt trong các tập thơ Tam gia, đến cả những lời bình của Ngô Thì Vị và Nguyễn Du bình thơ Lê Quang Định cũng được dịch đầy đủ, góp thêm một
Có thể bạn quan tâm!
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 1
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 2
- Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Gia Định Tam Gia
- Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Ngô Nhân Tĩnh
- Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Lê Quang Định
Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.
nguồn tư liệu quý cho mảng thơ, lý luận phê bình văn học trung đại của nước nhà. Thông qua những tư liệu này, người đọc có thể hình dung về nội dung, nghệ thuật thơ, cùng với quan niệm thơ của Gia Định tam gia.
Đồng thời, thơ của Lê Quang Định và của Ngô Nhân Tĩnh được giới thiệu gần như trọn vẹn (tập Thập Anh thi tập mà chúng tôi có từ thư viện Hán Nôm bị mất tờ nên có một số bài chưa thể khảo được). Riêng với thơ Trịnh Hoài Đức, chúng tôi đã dịch trọn vẹn hai tập thơ chính, phản ánh nội dung và nghệ thuật thơ của ông là Thoái thực truy biên và Quan quang tập, cùng một số bài trong Khả dĩ tập để làm tư liệu trong khi viết luận án.
5.2. Từ công tác xử lý văn bản thơ, chúng tôi tiến hành làm rõ và xác định lại năm sinh năm mất của các tác giả Gia Định tam gia, thông qua nhiều nguồn tư liệu, khắc phục được những thiếu sót, những băn khoăn về năm sinh năm mất của Tam gia trong các công trình cũng như các bài viết trước đây. Từ đó, chúng tôi biên soạn niên biểu Gia Định tam gia làm cơ sở cho những nghiên cứu khác về sau.
5.3. Luận án nghiên cứu chuyên biệt về thơ Gia Định tam gia ở phương diện nội dung và nghệ thuật, đồng thời đặt nó trong bối cảnh văn học Hán Nôm Nam Bộ đương thời để thấy những giá trị về nội dung và nghệ thuật thơ của các tác giả.
5.4. Từ những kết quả thu được khi nghiên cứu thơ Gia Định tam gia trong công trình này, chúng tôi xác định trong tương lai gần sẽ sửa chữa hoàn chỉnh và giới thiệu toàn bộ thơ Gia Định tam gia nhằm cung cấp cho giới nghiên cứu và người đọc nói chung những tư liệu cần thiết và khả tín.
6. Bố cục luận án
Không kể phần Dẫn nhập, Kết luận, luận án được chia thành 3 chương: Chương 1: Gia Định tam gia, tác giả và tác phẩm
Chương 2: Đặc điểm nội dung trong thơ Gia Định tam gia Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật trong thơ Gia Định tam gia Ngoài ra, phần Phụ lục gồm:
- Niên biểu Gia Định tam gia
- Các bài tự bạt trong ba tập thơ của Gia Định tam gia
- Trích dịch thơ Gia Định tam gia
- Hình ảnh tư liệu có liên quan đến Gia Định tam gia
CHƯƠNG 1
GIA ĐỊNH TAM GIA TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1. BỐI CẢNH VĂN HỌC HÁN NÔM NAM BỘ TỪ THẾ KỶ 18 ĐẾN CUỐI THẾ KỶ 19
Tình hình văn học Hán Nôm Nam Bộ mà trung tâm chính là khu vực Sài Gòn
– Gia Định đã giải quyết một cách thấu đáo trong chuyên khảo Văn học Hán Nôm ở Gia Định của Cao Tự Thanh, công bố trong Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh, tập 2, Văn học, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1988. Tuy nhiên, việc trình bày khái quát bối cảnh văn học Hán Nôm Nam Bộ để từ đó soi chiếu sáng tác của Gia Định tam gia nhằm xác lập vị trí của Gia Định tam gia trong văn học sử Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung là việc cần thiết, vì vậy trong mức độ cho phép, chúng tôi trình bày ngắn gọn bối cảnh thời đại và văn học Hán Nôm Nam Bộ trong giai đoạn này.
1.1.1. Bối cảnh thời đại
Năm 1658, đời Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, vua Cao Miên là Nặc Ong Chân xâm phạm biên giới, chúa bèn sai người tiến đánh đến Mô Xoài và Đồng Nai. Sau cuộc chiến này, những lưu dân người Việt càng có điều kiện di cư vào vùng đất này để làm ăn mở mang đất đai. Theo Trịnh Hoài Đức, bấy giờ “địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai, tại hai xứ ấy đã có dân của nước ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất” [29, tr.109].
Sau đó, cuộc di dân với quy mô lớn của người Hoa Nam Trung Quốc như Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch năm 1679, được chúa Nguyễn cho vào Nam ở Nông Nại và Mỹ Tho nhằm giúp chúa Nguyễn khai phá vùng đất mới mà triều đình chưa kinh lý được. Tại đây, nhưng lưu dân Hoa Nam cùng với những người dân Việt đã vỡ đất phá rừng, lập phố chợ, từ đó các thương thuyền các nước Trung Hoa, Nhật Bản, cả các châu Âu, Java qua lại buôn bán tấp nập [51, tr.314- 316].
Năm Mậu Dần, 1698, đời Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) kinh lược đất Cao Miên lấy đất
Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Côn (Sài Gòn) làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn [29, tr.111-112], thì bấy giờ “ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng dinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch” [29, tr.112].
Sau đó, vào cuối thế kỷ 17, cuộc di dân của Mạc Cửu từ Hoa Nam đã đi thẳng xuống vùng cực nam vịnh Thái Lan, quy tụ nhân dân, khẩn hoang, lập ấp, mở hải khẩu, chiêu thương, mậu dịch, đến cuối thế kỷ 18 thì họ chiếm lĩnh gần hết dải duyên hải miền tây nam, thành lập một tiểu quốc. Năm 1708, họ Mạc đem tất cả đất đai mà mình đã khai mở quy thuận triều đình chúa Nguyễn để làm thế ỷ dốc, bảo hộ về mặt ngoại giao, còn về văn hoá, xã hội, kinh tế họ Mạc đều tự chủ lấy. Triều đình cho Mạc Cửu làm Thống binh Hà Tiên, sau đó phân chia đất này lập châu Định Viễn và dinh Long Hồ (1732). Đất Hà Tiên bấy giờ ngày càng đông đúc trở thành nơi phồn thịnh, nhiều thương thuyền Trung Quốc, Chân Lạp, Xiêm, Java đến buôn bán…
Năm 1771, cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn nổ ra, quy tụ được một lực lượng tham gia khởi nghĩa khá đông đảo. Bấy giờ, lực lượng của chúa Nguyễn bị suy yếu do sự chia cắt ranh giới bởi một bên là quân khởi nghĩa Tây Sơn, và một bên là chúa Trịnh. Nắm lấy thời cơ này, chúa Trịnh đem quân tiến đánh nhà Nguyễn, buộc chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) phải bỏ Phú Xuân, cùng cháu là Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Nam vào năm 1775. Hai năm sau, trong đợt tấn công của Tây Sơn vào Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Thuần bị Nguyễn Huệ giết ở Long Xuyên (An Giang) năm 1777. Nguyễn Ánh thoát chết trong trận này, lui quân về vùng đất miền Tây Nam Bộ, sau đó chống trả với Tây Sơn bằng việc đánh chiếm lại Vĩnh Long và tiến đánh Sài Gòn xây dựng thành căn cứ để chống trả với Tây Sơn.
Cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh kéo dài từ năm 1777 đến đầu năm 1802, trong khoảng thời gian 25 năm trên vùng đất Nam Bộ mà chủ yếu ở vùng Gia Định.
Năm 1802, Nguyễn Ánh khôi phục lại sự thống trị của dòng họ sau khi đánh
bại nhà Tây Sơn, lãnh thổ cũng được mở rộng đến cả Bắc Hà. Tình hình chính trị
của triều Nguyễn tạm bình ổn trong thời gian đầu, mặc dù nhiều cuộc khởi nghĩa nổ
ra khắp cả nước.
Năm 1820, vua Minh Mệnh lên ngôi, tiếp tục thực hiện công cuộc thống nhất đất nước về mặt hành chính, trong đó có việc bãi bỏ cơ chế quản lý Bắc Thành (năm 1831) và Gia Định Thành (năm 1832) dưới đời Gia Long, chia định lại các tỉnh. Việc phân định lại các tỉnh kéo theo việc đặt lại các quan chức cho mỗi tỉnh gồm tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát và lãnh binh. Nam Bộ bấy giờ chia thành sáu tỉnh: Biên Hoà, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Sau đó tỉnh Phiên An được đổi lại thành tỉnh Gia Định (năm 1833).
Sau cái chết của Lê Văn Duyệt, những quân binh dưới trướng của Lê Văn Duyệt đã ra mặt chống đối triều đình nhà Nguyễn. Ngày 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi nghĩa ở thành Phiên An chống lại triều đình Nguyễn, thu hút được một số tầng lớp thương nhân người Hoa. Cuộc khởi binh này lúc đầu địa bàn rộng cả sáu tỉnh nhưng sau thu dần ở Gia Định và cuối cùng bị bao vây trong thành Bát quái. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa này chỉ mang tính chất một cuộc binh biến chứ chưa phải là cuộc khởi nghĩa mang tính nhân dân như ở các địa phương khác. Cuộc binh biến do Lê Văn Khôi cầm đầu tại thành Gia Định nổ ra và kéo dài hai năm (1833-1835), khiến cho triều đình phải tốn nhiều công sức trong việc bình loạn.
Năm 1841, Thiệu Trị lên ngôi, nhưng chỉ ở ngôi được 6 năm, đến năm 1847 thì mất. Tự Đức kế vị thực hiện nhiều chính sách khá bảo thủ, lạc hậu làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Với những chính sách trọng nông ức thương, bế quan toả cảng của triều đình Nguyễn đã khiến cho xã hội ở Nam Bộ vốn linh hoạt đã nảy sinh mâu thuẫn giữa tầng lớp thương nhân và địa chủ với triều đình. Tuy nhiên những mâu thuẫn này vẫn được điều hoà chưa thể phát triển thành những cuộc khởi nghĩa do các nhà nho lãnh đạo như cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương ở miền Bắc do Cao Bá Quát cầm đầu. Trong khi đó, các cuộc khởi nghĩa nông dân vẫn nổ ra ở các vùng Bắc Trung Bộ khiến triều đình Nguyễn nhiều phen đưa quân đi dẹp loạn. Ở Nam Bộ tình hình này có vẻ lắng dịu hơn. Nhưng sau khi Tự Đức lên ngôi, với chính sách cấm đạo Thiên Chúa, chính sách ngăn sông cấm chợ bởi sự yếu kém về kiến thức khoa học xã hội đã dần tạo tiền đề cho sự xâm lược của nước ngoài, đặc biệt nước Pháp.
Từ thời vua Minh Mệnh đến Thiệu Trị, các nước Anh, Pháp đã ngấp nghé muốn đặt chân vào nước ta nhưng vẫn chưa có dịp. Nay nhân việc cấm đạo của Tự Đức càng gắt gao hơn, đồng thời lấy cớ việc vua Tự Đức không tiếp quốc thư của Pháp vào năm 1856, lính Pháp đã nổ súng bắn phá đồn luỹ ở khu vực Sơn Trà – Đà Nẵng và đổ bộ lên bờ. Năm 1857, vua Pháp là Napoleon III đã thông qua quyết định dùng vũ trang can thiệp và xâm lược Việt Nam. Đến tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp chính thức đưa quân vào cửa biển Đà Nẵng, đến ngày 17-2-1859 quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Sự chống trả yếu ớt và từng bước nhượng bộ những đòi hỏi của thực dân Pháp từ triều đình Nguyễn đã khiến nhiều tầng lớp nhân dân bất bình đứng lên khởi nghĩa.
Hoà ước Nhâm Tuất 1862 cắt nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ gồm Biên Hoà, Gia Định, Định Tường và năm 1867, quân Pháp tiến đánh ba tỉnh miền Tây, bấy giờ Phan Thanh Giản đang làm Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ thấy tình hình lực lượng của hai bên đã ra lệnh dâng ba thành còn lại là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, sau đó ông uống thuốc độc tự tử. Từ đây, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân cả nước đặc biệt là khu vực Nam Bộ lắng dần bởi mất đi địa bàn hậu cứ. Tình hình này tác động đến tư tưởng của các nhà nho Nam Bộ khiến cho những sáng tác văn học Hán Nôm ở Nam Bộ bấy giờ có nội dung yêu nước với âm hưởng bi hùng, khác với nội dung yêu nước được thể hiện trong thơ Gia Định tam gia ở giai đoạn trước.
1.1.2. Diện mạo văn học Hán Nôm ở Nam Bộ
Ở Đàng Trong cũng như ở Gia Định nói riêng, các chúa Nguyễn tuy không mở trường học, nhưng trong dân gian có nhiều trường học kiểu tư thục của những nhà nho. Những người thầy thường là những nhà nho ở miền Bắc miền Trung vào, được các bậc cha anh mời dạy. Mục đích của việc học là để con em biết chữ làm người chứ không phải học tập theo kiểu khoa cử. Chính vì vậy mà cái học ở Nam Bộ có tính thực dụng và phóng khoáng hơn so với các vùng miền khác, điều này sẽ ảnh hưởng đến học phong của cả vùng đất Nam Bộ về sau.
Ở Bình Dương, phủ Gia Định, bên cạnh trường học của Võ Trường Toản (mất năm 1792), còn có trường học của Đặng Đức Thuật (mất năm 1796). Chính các ông là người đào tạo trực tiếp ra các nhân tài tham gia trực tiếp vào chính quyền Nguyễn Ánh sau này.
Với tư liệu thiếu thốn hiện nay, chưa cho phép chúng ta tìm hiểu kỹ về việc học hành thi cử ở Nam Bộ trong giai đoạn này. Tuy nhiên có thể thông qua những ghi chép của Trịnh Hoài Đức ít nhiều cho thấy tình hình học hành ở vùng đất mới Nam Bộ như sau:
慈幃攜余再往藩安鎮流寓于新隆縣,全賴和丸斷織,嚴督從師。然而村
學童生坐欠春風,止知背讀講義而已 “Từ vi huề dư tái vãng Phiên An trấn lưu
ngụ vu Tân Long huyện, toàn lại hoà hoàn đoạn chức, nghiêm đốc tòng sư. Nhiên nhi thôn học đồng sinh toạ khiếm xuân phong, chỉ tri bối độc, giảng nghĩa nhi dĩ.” (Mẹ tôi dắt tôi trở lại trấn Phiên An, lưu ngụ ở huyện Tân Long, toàn nhờ cậy vào sự dạy dỗ của mẹ, mà kính cẩn dốc lòng theo thầy học tập. Nhưng đám trẻ đi học trong làng lúc ấy thiếu thầy giỏi, chỉ biết đọc thuộc lòng, giảng nghĩa chữ mà thôi.) (Cấn Trai thi tập, Tự tự).
Trong bài thơ viết khi ông ở làng Long Tịch, cảnh sinh hoạt học tập của trẻ con, cảnh làm ăn sinh sống của người dân được ông ghi lại vừa khái quát vừa sinh động:
學童霜履虹橋去
釣叟煙凌水滸歌邨落生涯勤少婦簷前邀月揀棉花
Học đồng sương lý hồng kiều khứ,
Điếu tẩu yên lăng thuỷ hử ca. Thôn lạc sinh nhai cần thiếu phụ,
Diêm tiền yêu nguyệt giản miên hoa.
(Trịnh Hoài Đức, Long Tịch thôn cư tạp vịnh)1
(Học trò nhỏ đi trên chiếc cầu cong cong trong màn sương,
Ông già câu cá hát vang bên bờ nước mờ khói.
Trong xóm thôn, người thiếu phụ cần cù làm việc kiếm sống,
Trước mái nhà, chờ trăng lên để nhặt hoa gòn.)2
Cảnh sinh hoạt bàn luận thơ ca thời bấy giờ trên vùng đất Nam Bộ mà đặc biệt
ở Gia Định cũng khá sôi nổi:
自是時名先輩,樂與交遊,許以忘年拉登論文鏖筆之壇範,我馳驅從容取勝,而安靜之名已並播於文人之口矣“Tự thị thời danh tiên bối, lạc dữ giao du,
hứa dĩ vong niên lạp đăng luận văn ao bút chi đàn phạm. Ngã trì khu thung dung thủ
1 Các bản trích dẫn thơ của Trịnh Hoài Đức đều được trích từ Cấn Trai thi tập, ký hiệu A.780, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu trữ.
2 Tất cả những bản dịch thơ Gia Định tam gia được sử dụng trong đây đều là của chúng tôi, các bản dịch của
người khác chúng tôi đều có ghi chú.
thắng, nhi An Tĩnh chi danh dĩ tịnh bá ư văn nhân chi khẩu hĩ” (Từ đó, các bậc tiên bối nổi danh thời bấy giờ, vui vẻ cùng kết giao, xem là bạn vong niên, cho tham dự các cuộc bàn văn luận bút, chúng tôi nhanh chóng thong dong giành thắng, nên cái tên An (Trịnh Hoài Đức), Tĩnh (Ngô Nhân Tĩnh) đều được truyền rộng qua miệng các văn nhân vậy.)
Chi tiết này cho thấy đội ngũ trí thức trên vùng Nam Bộ, khoảng nửa cuối thế kỷ 18, đặc biệt là ở Gia Định đã khá phát triển. Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Ngô Tòng Châu, Nguyễn Hương… là những học trò của Võ Trường Toản và Đặng Đức Thuật. Đặc biệt là từ khi gặp Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh đã tập hợp các bạn yêu thơ và thành lập thi xã có tên là Sơn Hội, tập trung nhiều nhà thơ gốc người Minh Hương như Hối Sơn Huỳnh Ngọc Uẩn, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng, Phục Sơn Vương Kế Sinh, Nhân Sơn là em họ của Trịnh Hoài Đức…
Những chính sách trong thời chiến của Gia Long đã thúc đẩy Gia Định trở thành trung tâm kinh tế-văn hoá của cả vùng Nam Bộ. Đồng thời, để đủ lực lượng chống lại Tây Sơn, Gia Long cần có một đội ngũ quan lại trí thức làm việc cho mình, bằng việc tổ chức các kỳ thi tuyển chọn nhân tài.
Năm 1788, có đợt ứng thí ra làm quan, trong đợt này, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh, Ngô Tòng Châu, Hoàng Minh Khánh… đều ra ứng thí. Trong Thực lục cho biết, năm 1791, mở khoa thi, lấy trúng cách 12 người (phép thi, kỳ đệ nhất, chế nghĩa thì kinh truyện đều một đạo, thơ thì dùng sử dùng cảnh đều một bài; kỳ đệ nhị, chiếu chế biểu dùng sử dùng cảnh đều ba đạo), vua thấy số thi hỏng nhiều, lại sai khảo hạch lại [92, tr.274]. Tháng chạp năm 1795, ra quy chế về thi cử, thi hội vào tháng 3, theo đúng quy định tiền triều [92, tr.331]. Tháng 3 năm 1796, mở khoa thi lấy đỗ 273 người, trong đó trúng tam trường 14 người, trúng nhị trường 54 người, trúng nhất trường 205 người [92, tr.334].
Sau khi giành lại chính quyền từ Tây Sơn, việc tổ chức học hành thi cử có quy củ hơn khiến cho con số những người học hành đỗ đạt ở khu vực Nam Bộ tăng lên đáng kể. Năm 1802, số người thi lấy đỗ giảm xuống mà số người đỗ cao tăng lên: 41 người tam trường, 46 người nhị trường, 92 người nhất trường. Từ 1813 đến 1864 triều Nguyễn đã tổ chức 20 khoa thi hương ở trường Gia Định lấy đỗ 269 người Cử