đời tại Mỹ và cũng là những tổ chức tiên phong trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm trên thế giới, sau đó có thêm Fitch Investors Service. Ngày nay các tổ chức tín nhiệm này của Mỹ hoạt động trên các thị trường tài chính lớn và cả những thị trường mới nổi trên toàn cầu, kết quả xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức này được đánh giá rất cao.
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu trên thế giới gồm Fitch, S&P, Moody's sử dụng chủ yếu phương pháp chuyên gia, đánh giá một cách toàn diện về nền kinh tế, ngành và công ty, kết hợp phân tích định tính và định lượng. Với chỉ tiêu phi tài chính được nỗ lực lượng hóa tối đa, chỉ tiêu tài chính được tính toán sau khi dữ liệu đã điều chỉnh để có thể so sánh với các doanh nghiệp tương đồng hoặc các doanh nghiệp trong ngành. Họ cũng chú trọng xem xét các nhóm tỷ số hơn bất kỳ tỷ số riêng lẻ nào và thiên về đánh giá dòng tiền thực chất mà doanh nghiệp tạo ra được với dòng tiền mà doanh nghiệp phải chi trả. Tuy nhiên dù sử dụng phương pháp nào, mô hình toán học hay phương pháp chuyên gia, mỗi hệ thống xếp hạng tín nhiệm đều có một số khuyết điểm nhất định. Nếu như phương pháp định lượng cần sự hỗ trợ của các nhân tố mềm thì phương pháp chuyên gia, tự thân đã chứa đựng rủi ro do yếu tố chủ quan trong xếp hạng, chắc chắn 100% về khả năng trả nợ của doanh nghiệp là điều không thể làm được.
- Kiểm tra và giám sát tín dụng: Kỹ thuật kiểm tra và giám sát tín dụng nhằm hỗ trợ cho việc nhận biết rủi ro tín dụng, trong suốt quá trình cấp tín dụng ngân hàng phải có một quá trình liên tục kiểm tra và giám sát. Đây là khâu quan trọng trong quá trình quản lý tín dụng của ngân hàng. Giám sát từng khoản vay một cách thường xuyên nhằm phát hiện “dấu hiệu cảnh báo sớm” để có hành động khắc phục kịp thời.
Khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng, khoản tín dụng đó cần được quản lý một cách chủ động để có thể phát hiện sớm nhất những dấu hiệu của rủi ro tín dụng. Việc theo dõi các khoản tín dụng là một trong những công việc quan trọng của cán bộ tín dụng, quá trình giám sát tín dụng nhằm mục đích:
+ Đảm bảo cho ngân hàng hiểu rõ hiện trạng tài chính của khách hàng.
+ Đảm bảo rằng tất cả các khoản tín dụng đều tuân thủ theo đúng hợp đồng tín dụng.
+ Giám sát việc sử dụng khoản tín dụng đã cấp cho khách hàng.
+ Đảm bảo rằng khách hàng hoàn trả đúng hạn và có biện pháp thích hợp, kịp thời trong trường hợp khách hàng không trả được đầy đủ và đúng hạn.
Có thể bạn quan tâm!
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á - 1
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á - 2
- Nội Dung Và Quy Trình Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Trong Nhtm:
- Cơ Cấu Bộ Máy Tổ Chức Quản Lý Nói Chung Và Bộ Phận Kinh Doanh Và Quản Lý Tín Dụng:
- Một Số Thành Tựu Của Nhtmcp Đông Nam Á Đã Đạt Được (2009-
- Mô Hình Tổ Chức Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Seabank:
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
+ Kịp thời xác định và phân loại các khoản tín dụng có vấn đề để có biện pháp quản lý riêng.
Giám sát tổng thể danh mục tín dụng nhằm phát hiện những rủi ro tập trung. Bên cạnh việc giám sát riêng rẽ từng khoản tín dụng, từng khách hàng, ngân hàng cũng cần định kỳ giám sát tổng thể thành phần và chất lượng của danh mục tín dụng. Trong quá trình giám sát cần đặc biệt chú ý:
+ Cần so sánh thành phần của danh mục với mục tiêu cần đạt được.
+ Xác định và tìm hiểu về các xu hướng trong phạm vi danh mục dựa trên những biến động gần nhất về xếp hạng tín dụng của khách hàng, hiện tượng gia tăng dự phòng nợ khó đòi hoặc xóa nợ.
+ Xem xét hiện tượng tập trung trong danh mục tín dụng.
+ Tập trung tín dụng có thể có nhiều hình thức và có thể phát sinh khi có một số lớn các khoản tín dụng đều có chung những đặc điểm rủi ro tương tự nhau. Mức độ tập trung tín dụng cao sẽ khiến cho ngân hàng phải gánh chịu nhưng biến động bất lợi trong lĩnh vực mà tín dụng được tập trung. Tập trung tín dụng xảy ra khi danh mục tín dụng của ngân hàng được tập trung ở mức cao cho một đơn vị hoặc một nhóm các đơn vị liên kết nhau, một ngành kinh tế nhất định, khu vực địa lý...
+ Việc phát hiện những tập trung tín dụng tùy thuộc vào tông tin cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng.
- Phòng ngừa và tài trợ rủi ro tín dụng: Cho dù ngân hàng sử dụng tất cả các biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và kiểm soát chặt chẽ rủi ro đến đâu thì trong quá trình hoạt động cũng không ngăm chặn và tránh khỏi rủi ro tín dụng có nguyên nhân từ hai phía cả chủ quan cũng như khách quan. Yêu cầu đặt ra là cần phải có những biện pháp xử lý khắc phục rủi ro đó để ngân hàng vẫn có thể hoạt động bình thường.
- Lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng: Đôi khi tài sản đảm bảo trong các khoản tín dụng không thể giúp ngân hàng thu hồi được khoản gốc và lãi. Vì vậy, các ngân hàng đều trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng nhằm khắc phục rủi ro nếu có. Dự phòng được trích lập căn cứ vào việc phân loại nợ. Trong trường hợp xảy ra khoản
tín dụng không thể thu hồi được, ngân hàng có thể sử dụng quỹ dự phòng này để bù đắp nhằm khắc phục rủi ro. Nhờ đó giúp ngân hàng đối phó được với những rủi ro tín dụng có thể xảy ra, không gây nên những biến động lớn trong hoạt động cũng như tình hình tài chính ngân hàng.
- Các biện pháp khắc phục: Căn cứ vào nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng mà các ngân hàng có những biện pháp để khắc phục như:
+ Yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo.
+ Xác định phương án cơ cấu nợ.
+ Thu hồi nợ.
- Các biện pháp xử lý: Khi xử lý rủi ro các ngân hàng sử dụng nhiều biện pháp xử lý để đảm bảo hiệu quả, nhanh chóng thu hồi được nợ nhưng phải đúng theo quy định của pháp luật.
+ Phát mại tài sản đảm bảo khoản vay.
+ Khởi kiện.
+ Bán nợ, chuyển giao rủi ro.
+ Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý.
1.3.3. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM:
Quy trình tín dụng mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho vay, giải ngân, thanh lý hợp đồng tín dụng.
Hầu hết các ngân hàng đều tự thiết kế cho mình một quy trình cụ thể và không ngừng hoàn thiện quy trình đó, vì vậy quy trình mà hợp lý sẽ góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng thông thường bao gồm các bước sau:
- Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng: Có thể nói đây là khâu quan trọng trong quy trình tín dụng, vì nó là khâu thu thập thông tin làm cơ sở để thực hiện tất cả các khâu còn lại và đặc biệt để phân tích và cấp tín dụng. Chính vì vậy cần quản lý ngay từ những khâu đầu tiên như thẩm định năng lực pháp lý, năng lực hành vi, thông tin tình hình trả nợ và thông tin về khoản đảm bảo tín dụng.
- Bước 2: Phân tích tín dụng: Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm
soát những loại rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa, hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Vậy quản lý rủi ro thế nào? Ta cần có quy trình cụ thể một chính sách phù hợp và một hệ thống xếp hạng tín dụng tốt thì mới có thể tiên lượng và phân tích chi tiết và đầy đủ nhất.
- Bước 3: Quyết định và ký hợp đồng tín dụng, giải ngân: Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong quy trình tín dụng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín, hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trong khâu này ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng, khi ra quyết định thường mắc 2 sai lầm cơ bản:
+ Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt
+ Từ chối cho vay với một khách hàng tốt
Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tín dụng, thậm chí sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Vậy cần phải có một mô hình quản lý rủi ro tín dụng chuyên biệt để quản lý rủi ro một cách có hệ thống trên toàn ngân hàng.
- Bước 4: Giám sát tín dụng, xử lý nợ: Mục tiêu nhằm bảo đảm tiền vay sử đụng đúng mục đích đã cam kết hay không, chấn chỉnh kịp thời sai phạm dẫn đến rủi ro. Theo quy định NHNN cụ thể thì việc giám sát tuân theo nguyên tắc khoản tín dụng có mức độ rủi ro càng cao thì tần xuất kiểm tra càng lớn.
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá về rủi ro tín dụng trong NHTM:
1.4.1. Phân loại nợ:
Theo quy định của ngân hàng Nhà nước theo điều 6 - Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước thì tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ thành 5 nhóm như sau [6]:
- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày.
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
Tỷ lệ trích lập và công thức tính dự phòng cụ thể: Cho dù được phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4 và 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Quyết định 493 đưa ra cách tính số tiền dự phòng bằng công thức hoàn toàn mới khác với cách tính dự phòng quy định tại các quy định trước đây. Theo các quy định trước đây số tiền dự phòng chỉ đơn giản bằng tỷ lệ trích dự phòng nhân với tài sản có từng nhóm, trong khi đó Quyết định 493 đưa ra công thức tính số tiền dự phòng như sau:
R = max {0, (A-C)} x r
Trong đó:
R: Số tiền dự phòng cụ thể phải trích A: Giá trị khoản nợ
C: Giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết định 493 quy
định đối với từng loại tài sản bảo đảm) r: Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Như vậy số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không phải lập dự phòng cho khoản nợ đó.
Tóm lại Quyết định 493 đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn
đối các ngân hàng. Đồng thời chi phí phát sinh từ những thay đổi trên sẽ chuyển
sang khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể tăng, các ngân hàng cũng sẽ ưu tiên cho việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng về dự phòng rủi ro. Đó là một phương pháp để giảm thiểu rủi ro tín dụng.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro tín dụng:
“Nếu bạn không đánh giá và đo lường được rủi ro thì bạn sẽ không kiểm soát được rủi ro” vì vậy để đánh giá được chất lượng tín dụng có rất nhiều chỉ tiêu. Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước thông thường các chỉ tiêu sau được sử dụng [7]:
Chỉ tiêu Nợ quá hạn: Là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ tiêu chuẩn để được gia hạn nợ. Đây là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Dư nợ quá hạn
Hệ số nợ quá hạn = ---------------------------- x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng cao phản ánh rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng thấp và ngược lại, đây là chỉ tiêu mà hiện nay các NHTM ở nước ta sử dụng rất phổ biến để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các NHTM thường chia nợ quá hạn thành các nhóm sau:
- Nợ quá hạn đến 180 ngày có khả năng thu hồi
- Nợ quá hạn từ 181-360 ngày có khả năng thu hồi
- Nợ quá hạn từ 360 ngày trở lên (nợ khó đòi)
Chỉ tiêu khách hàng có nợ quá hạn:
Tổng số khách hàng quá hạn
Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn = ----------------------------------- x 100%
Tổng số khách hàng có dư nợ
Nếu chỉ tiêu này cao thì phản ánh chính sách tín dụng của ngân hàng là không hiệu quả. Ngoài ra nếu chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu nợ quá hạn thì cho biết nợ quá hạn tập trung vào những khách hàng lớn, nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu nợ quá hạn thì cho biết nợ quá hạn tập trung vào những khách hàng nhỏ.
Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ:
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = ------------------- x 100%
Tổng dư nợ
Nợ xấu bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5, chỉ tiêu này nhằm đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nợ xấu phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn hơn, vốn của ngân hàng lúc này không còn ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn. Tỷ lệ nợ xấu thấp không đồng nghĩa với khối lượng nợ xấu thấp, do đó nợ xấu được tính trên tổng dư nợ tín dụng, tuy nhiên căn cứ vào chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu để đánh giá rủi ro tín dụng thì chưa đủ. Bởi vì những khoản tín dụng chưa đến hạn không có nghĩa là không có rủi ro, còn nếu các ngân hàng muốn che dấu chất lượng tín dụng thì có thể tăng dư nợ để làm cho tổng dư nợ tăng lên, tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống ... Vì vậy chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương đối rủi ro tín dụng.
1.5. Các nhân tố tác động đến quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM nhưng có thể chia thành các yếu tố ảnh hưởng do nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Do nguyên nhân khách quan:
- Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định:
+ Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
+ Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế.
+ Sự tấn công của hàng nhập lậu.
+ Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi:
+ Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ.
+ Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN: Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an
toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu.
+ Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng.
Do nguyên nhân chủ quan:
- Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay:
+ Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
+ Khả năng quản lý kinh doanh kém.
+ Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch.
- Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay:
+ Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng.
+ Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
+ Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay.
+ Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả.
1.6. Kinh nghiệm các nước về quản lý rủi ro tín dụng trong NHTMCP:
Tại Anh [8]: Cơ quan giám sát không đề ra chính sách chung mà từng ngân hàng quy định chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kế toán (IAS 39) với mục tiêu là phân loại nợ và trích lập dự phòng phản ánh đúng chất lượng tín dụng và khả năng tổn thất mà ngân hàng gặp phải trên cơ sở phân tích tình trạng lưu chuyển tiền tệ của khách hàng. Các khoản dự phòng