Nội Dung Và Quy Trình Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Trong Nhtm:


Tóm lại: Những hậu quả nặng nề có thể gây ra bởi rủi ro tín dụng cho thấy sự cần thiết phải đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng tất yếu phải quản lý rủi ro tín dụng.


Nam:

1.3. Nội dung và quy trình quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM:

1.3.1. Quy định của Nhà nước về quản lý rủi ro tại các NHTMCP tại Việt


Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững góp phần

tăng trưởng kinh tế, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu của Uỷ ban Basel (Basel II) về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng, gần đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro như [4]:

- Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/4/2005 yêu cầu các NHTM tuân thủ đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

- Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005 của Thống đốc NHNN sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của NHTM đối với khách hàng. Các nội dung được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết, hoặc tạo cơ sở pháp lý cho Tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh - Ví dụ: Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ là do NHTM tự xem xét, quyết định trên cơ sở khả năng tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.

- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc NHNN ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của NHTM.

Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á - 3

- Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của NHTM.

Các NHTM hiện đang thực hiện xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế, đặc điểm kinh doanh của NHTM theo tinh thần Quyết định 493 của Thống đốc NHNN. Đây là một bước tiến ban đầu trong tiếp cận an toàn vốn, không chỉ nhằm mục đích phân loại nợ mà còn nhằm


đánh giá rủi ro khoản vay, quản lý chất lượng tín dụng. Tuy nhiên bản thân Quyết định 493 cũng cần được điều chỉnh và đổi mới theo hướng quản trị rủi ro phải theo qui chuẩn của sổ tay tín dụng để phản ánh đúng các tiêu chí rủi ro theo “493” thực tế chứ không phải “493” danh nghĩa theo hệ thống báo cáo và còn nhiều khe hở như hiện nay. Nhiều ý kiến kiến nghị chương trình tái cơ cấu nghiệp vụ các NHTM Nhà nước tới đây phải tập trung mạnh vào cơ cấu phần này...

1.3.2. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM:

Các nguyên tắc cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng

Mục đích của quản lý rủi ro tín dụng là tối đa hóa tỷ lệ thu hồi vốn thông qua duy trì một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Các ngân hàng cần quản lý rủi ro tín dụng phát sinh trong toàn bộ danh mục các khoản tín dụng cũng như trong từng giao dịch cụ thể, đồng thời các ngân hàng cũng phải xem xét tới mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng với các loại rủi ro khác vì chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mặc dù biện pháp quản lý rủi ro tín dụng cụ thể ở từng ngân hàng là khác nhau do khả năng và cách quản lý của từng ngân hàng hay do tính chất và mức độ phức tạp của các hoạt động tín dụng. Nhưng một chương trình quản lý rủi ro tín dụng đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng nói chung có 5 nguyên tắc cơ bản sau:

- Tạo môi trường có mức độ rủi ro tín dụng phù hợp: Để quản lý rủi ro tín dụng trước tiên mỗi ngân hàng phải tạo được môi trường có mức độ rủi ro tín dụng phù hợp cho riêng mình trong từng thời kỳ nhất định, muốn vậy các ngân hàng nhìn chung đều phải thực hiện những nội dung sau:

Hội đồng quản trị phải có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ xem xét lại chiến lược và các chính sách quan trọng về rủi ro tín dụng của ngân hàng. Có nghĩa là ngân hàng phải đo lường được mức độ, hậu quả rủi ro và mức độ chống đỡ rủi ro. Dự tính được mức độ lợi nhuận mà ngân hàng có thể có được khi xảy ra các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau từ mức độ nhỏ đến mức độ lớn nhất.

Trên cơ sở chiến lược và các chính sách, ban giám đốc có trách nhiệm thực thi chiến lược và chính sách rủi ro tín dụng đã được hội đồng quản trị phê duyệt, xây dựng một chương trình để xác định, đo lường và giám sát, kiểm tra rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động của ngân hàng.


Ngân hàng phải xác định và quản lý rủi ro tín dụng hiện hữu trong tất cả các sản phẩm và hoạt động. Các ngân hàng cũng cần phải đảm bảo rằng rủi ro đối với sản phẩm và hoạt động mới phải được đánh giá đầy đủ trước khi các sản phẩm này được giới thiệu hoặc cam kết và phải được ban giám đốc hoặc hội đồng quản trị tín dụng phê duyệt trước.

- Xây dựng quy trình cấp tín dụng hợp lý: Ngân hàng phải hoạt động theo những tiêu chuẩn cấp tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Những tiêu chuẩn này cần bao gồm sự tìm hiểu kỹ về khách hàng, mục đích, cơ cấu của các khoản tín dụng cũng như nguồn trả nợ của ngân hàng.

Các ngân hàng phải thiết lập những giới hạn tín dụng tổng thể ở từng cấp độ, từng khách hàng và nhóm khách hàng liên kết cho các loại rủi ro khác nhau, cả trong hoạt động ngân hàng cũng như trong giao dịch thương mại, đối với tài sản nội bảng cũng như ngoại bảng.

Các ngân hàng phải có một quy trình được xây dựng một cách rõ ràng cho việc phê duyêt cho các khoản tín dụng mới mở cũng như mở rộng các khoản tín dụng hiện có.

Mọi quyết định mở rộng tín dụng phải được thực hiện trên nguyên tắc là vẫn nằm trong vòng kiểm soát.

- Duy trì quá trình đo lường và quản lý tín dụng: Các ngân hàng phải có trong tay một hệ thống hành chính để quản lý những danh mục đầu tư đa dạng có hàm chứa rủi ro tín dụng, bởi vì đầu tư cũng là một trong những hoạt động quan trọng của ngân hàng.

Bên cạnh hệ thống hành chính quản lý danh mục cho vay, ngân hàng còn phải có hệ thống giám sát tình hình từng khoản tín dụng, bao gồm cả việc xác định xem các khoản dự phòng và ký quỹ có đầy đủ không.

Các ngân hàng phải đưa vào hệ thống đánh giá rủi ro nộ bộ để quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ trong một ngân hàng cần phải phù hợp với tính chất, quy mô và độ phức tạp của các hoạt động ngân hàng.

Các ngân hàng phải có hệ thống thông tin và có kỹ thuật phân tích, cho phép cấp quản lý có thể đo lường rủi ro tín dụng hiện hữu trong tất cả các giao dịch nội


bảng và ngoại bảng. Hệ thống thông tin quản lý cần cung cấp đầy đủ thông tin về cơ cấu danh mục đầu tư tín dụng.

Các ngân hàng phải có trong tay một hệ thống giám sát cơ cấu và chất lượng tổng thể của danh mục đầu tư tín dụng.

Các ngân hàng xem xét đến những thay đổi về điều kiện có thể xảy ra trong tương lai khi đánh giá từng khoản tín dụng như toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng và đánh giá những nguy cơ rủi ro tín dụng.

- Bảo đảm kiểm soát tín dụng đầy đủ: Các ngân hàng phải thiết lập một hệ thống độc lập đánh giá lại tín dụng. Các ngân hàng phải thiết lập và thực thi kiểm soát nộ bộ và các biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo rằng các chính sách, quy trình và giới hạn an toàn được thực hiện đầy đủ và báo cáo kịp thời.

Các ngân hàng phải xây dựng cho mình một hệ thống các khoản tín dụng có vấn đề và các tính huống khó khăn từ việc nhận biết các dấu hiệu có vấn đề của các khoản tín dụng đến việc theo dõi và xử lý những khoản đó.

- Nâng cao vai trò của cơ quan giám sát: Các cơ quan giám sát phải yêu cầu các ngân hàng có một hệ thống hoạt động hiệu quả để xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng như là một phần trong hệ thống quản lý rủi ro tổng thể. Các cơ quan giám sát phải tiến hành đánh giá độc lập về các chiến lược, chính sách, biện pháp thực hiện các quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng và quản lý danh mục của ngân hàng.

Nội dung quản lý rủi ro tín dụng

- Xác định mục tiêu và thiết lập chính sách tín dụng: Công tác quản lý rủi ro tín dụng là xác định được mục tiêu và thiết lập chính sách tín dụng của ngân hàng. Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng là giảm thiểu rủi ro, đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả.

Để đạt mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng đề ra các ngân hàng cần thiết lập cho mình chính sách tín dụng phù hợp, đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý và bảo đảm an toàn. Chính sách tín dụng bằng văn bản là yếu tố cơ bản, nền tảng của quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả. Chính sách tín dụng đặt ra mục tiêu tham số định hướng cho cán bộ ngân hàng, cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để tuân theo. Chính sách tín dụng được xây dựng khoa học, cẩn thận, thông


suốt từ trên xuống dưới tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro qua mức và đánh giá về cơ hội kinh doanh. Các tổ chức giám sát hoạt động ngân hàng trên thế giới đều coi một chính sách tín dụng được xây dựng đúng đắn là điều kiện thiết yếu để quản lý tốt rủi ro tín dụng.

Chính sách tín dụng nói chung có hai kiểu: Chính sách tín dụng mở rộng (thích hợp và nên áp dụng trong hoàn cảnh tình hình kinh tế tăng trưởng và công tác quản lý tín dụng của ngân hàng được đảm bảo) và chính sách tín dụng thắt chặt (nên áp dụng trong hoàn cảnh ngân hàng quản lý tín dụng kém hiệu quả hoặc nền kinh tế có dấu hiệu chững lại mở đầu cho thời ký suy thoái) và được thực hiện thông qua các công cụ như: Lãi suất, tỷ lệ tham gia vốn của ngân hàng và tiêu chuẩn xét duyệt cấp tín dụng.

Một chính sách tín dụng tốt phải là một ứng dụng thông minh của những nguyên tắc tín dụng thích hợp với những thay đổi của các nhân tố và môi trường kinh tế.

- Phân tích, đánh giá rủi ro: Để xây dựng và đưa các chiến lược chính sách vào thực tế, ngân hàng phải xây dựng một cơ cấu tổ chức hiệu quả trên các nguyên tắc đảm bảo sự minh bạch, công khai, trong đó phải xác định rõ vai trò và trách nhiệm phân tách các nhiệm vụ trong triển khai hoạt động. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng phải có sự tham gia của mọi bộ phận liên quan đến hoạt động tín dụng, từ ban lãnh đạo cấp cao của ngân hàng đến bộ phận kinh doanh và các bộ phận liên quan. Cơ cấu tổ chức rủi ro tốt sẽ là một bộ phương thức quản lý rủi ro bài bản.

Phân tích và thẩm định tín dụng là hai khâu quan trọng trong toàn bộ quy trình tín dụng, hai khâu này nếu thực hiện tốt sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý và giảm thiểu rủi ro.

Mục tiêu của phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc lần lãi. Giúp ngân hàng đánh giá về điều kiện và khả năng trả nợ của khách hàng, tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những loại rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra để ra quyết định có nên cấp tín dụng hay không.


Mặc khác phân tích tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm tra tính chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó thẩm định về thái độ trả nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay. Điều này góp phần làm giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Mục tiêu của thẩm định tín dụng là đánh giá mức độ tin cậy của phương án hoặc dự án của khách hàng, theo đó ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi mà đánh giá được phương án hoặc dự án đầu tư của khách hàng là đáng tin cậy.

Mục đích của phân tích tín dụng và thẩm định tín dụng nhằm: Hạn chế thông tin bất cân xứng, đánh giá đúng thực trạng rủi ro của khách hàng và khả năng kiểm soát của ngân hàng về các loại rủi ro đó, dự kiến các biện pháp phòng ngừa.

- Đo lường rủi ro: Một trong những tính chất cơ bản của tài chính hiện đại là tính rủi ro và vì vậy tất cả các mô hình tài chính hiện đại đều được đặt trong môi trường rủi ro. Do đó cần thiết phải có một khái niệm rủi ro theo quan điểm lượng và phải xây dựng công cụ để đo lường nó, có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng bao gồm các mô hình định lượng và mô hình định tính. Luận văn xin giới thiệu một số mô hình như sau:

Mô hình định tính về rủi ro tín dụng - Mô hình 6C:

Đối với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có thiện chí và khả thanh toán toán khi khoản vay đến hạn hay không. [5] Điều này liên quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh – 6C” của khách hàng theo FDIC, Bank Examination policies, Washington, D.C, selected yea bao gồm:

- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng (CBTD) phải chắc chắn rằng người vay có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.

- Năng lực của người vay (Capacity): Người đi vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, người vay có phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.

- Thu nhập của người vay (Cashflow): Xác định nguồn trả nợ của khách hàng

vay.

- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Là nguồn thu thứ hai có thể dùng để trả nợ

vay cho ngân hàng.


- Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ.

- Kiểm soát (Control): Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng. Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình này là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của CBTD.

Các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng:

Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để đánh giá rủi ro tín dụng. Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều tiếp cận phương pháp đánh giá rủi ro hiện đại hơn, đó là lượng hóa rủi ro tín dụng. Sau đây là một số mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng thường được sử dụng nhiều nhất:

Mô hình điểm số Z (Z-credit scoring model): Mô hình điểm số Z do Giáo sư Edward I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào: Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj), tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Chỉ số Z bao gồm 5 chỉ số X1, X2, X3, X4, X5, trong đó:

X1 = tỷ số “vốn lưu động ròng/tổng tài sản”.

X2 = tỷ số “lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản”.

X3 = tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản”. X4 = tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” X5 = tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”.

Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp, như vậy khi trị số Z thấp hoặc âm sẽ là căn cứ để xếp hạng khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Từ một chỉ số Z ban đầu Giáo Sư Edward I.Altman đã phát triển ra Z’ và Z’’ để có thể áp dụng theo từng loại hình và ngành của doanh nghiệp như sau:

- Đối với doanh nghiệp (DN) đã cổ phần hoá, ngành sản suất:

Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.64X4 + 0.999X5

+ Nếu Z>2.99: DN nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản.

+ Nếu 1.8<Z<2.99: DN nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản.


+ Nếu Z<1.8: DN nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

- Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá, ngành sản xuất:

Z’ = 0.717X1 + 0.847X2 + 3.107X3 + 0.42X4 + 0.998X5

Nếu Z’>2.9: DN nằm trong vùng an toàn chưa có nguy cơ phá sản.

Nếu 1.23<Z’<2.9: DN nằm trong vùng cảnh báo có thể có nguy cơ phá sản.

+ Nếu Z’<1.23: DN nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

- Đối với các doanh nghiệp khác: Chỉ số Z’’ dưới đây có thể được dùng cho hầu hết các ngành, các loại hình doanh nghiệp. Vì sự khác nhau khá lớn của X5 giữa các ngành, nên X5 đã được đưa ra. Công thức tính chỉ số Z’’ được điều chỉnh như sau:

Z’’ = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4

Nếu Z’’>2.6: DN nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản.

Nếu 1.2<Z’’<2.6: DN nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản.

Nếu Z”<1.1: DN nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

Ưu điểm: Kỹ thuật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn giản.

Nhược điểm: Mô hình này chỉ cho phép phân hàng thành hai nhóm là “vỡ nợ” và “không vỡ nợ”, Trong thực tế “vỡ nợ” được phân thành nhiều loại, từ không trả hay chậm trễ trong việc trả lãi tiền vay đến việc không hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay. Điều này hàm ý cần có một mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang điểm để phân loại khách hàng thành nhiều nhóm tương ứng với các mức độ vỡ nợ khác nhau.

Không có lý do rõ ràng để phân tích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số theo thời gian, dù là trong ngắn hạn.Tương tự như vậy bản thân các chỉ số được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện thị trường và kinh doanh thường xuyên thay đổi. Mô hình cũng giả thiết rằng các biến số là hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc lẫn nhau.

Đã không tính tới một nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hóa, nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. Ví dụ, yếu tố “danh tiếng” của khách hàng, yếu tố “mối quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và ngân hàng, hay yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh.

Phương pháp xếp hạng và chấm điểm tín dụng: Moody’s Investors Service (Moody’s) và Standard & Poor's (S&P) là hai tổ chức tín nhiệm có uy tín và lâu

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/12/2022