3.3.8. Giải pháp nâng cao trình độ nguồn nhân lực 84
3.3.9. Thúc đẩy hoạt động thông tin với các cơ quan chức năng 85
3.3.10. Thúc đẩy hoạt động thông tin tín dụng ngân hàng 85
3.4. Một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại 86
3.4.1. Kiến nghị đối với NHNN 86
3.4.2. Kiến nghị đối với chính phủ và các ngành liên quan 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU
Có thể bạn quan tâm!
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á - 1
- Nội Dung Và Quy Trình Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Trong Nhtm:
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Về Rủi Ro Tín Dụng Trong Nhtm:
- Cơ Cấu Bộ Máy Tổ Chức Quản Lý Nói Chung Và Bộ Phận Kinh Doanh Và Quản Lý Tín Dụng:
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh phức tạp nhất so với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại, hoạt động này tuy thu được nhiều lợi nhuận những cũng có không ít rủi ro. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Vì vậy, nếu xảy ra rủi ro tín dụng sẽ có tác động rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng, cao hơn nó tác động ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt với ngân hàng thương mại ở Việt Nam lợi nhuận thu được từ hoạt động này thường chiếm khoảng 70% toàn bộ lợi nhuận của ngân hàng.
Theo quy chuẩn thông lệ quốc tế, cơ chế quản trị rủi ro cho hệ thống ngân hàng Việt Nam đang dần hoàn thiện và được đánh giá là khá chặt chẽ. Tuy nhiên, giải pháp hữu hiệu nhất chính là nâng cao năng lực tự quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại, việc quản trị rủi ro tín dụng luôn trở thành vấn đề mang tính cấp thiết là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ ngân hàng nào trong đó có Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank). Nhất là trong môi trường kinh doanh khó khăn này đòi hỏi các ngân hàng phải thực sự nỗ lực, mục tiêu mà SeABank đặt ra và định hướng phát triển là “Trở thành tập đoàn tài chính ngân hàng bán lẻ tiêu biểu tại Việt Nam", để đạt được mục tiêu đề ra SeABank xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược đổi mới này của SeABank là đẩy mạnh việc củng cố chất lượng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay mới, tích cực xử lý nợ xấu, song song với việc củng cố lại cơ cấu tổ chức ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ. Làm thế nào để hoàn thành được nhiệm vụ đã đề ra. Đây là một vấn đề đang được ban lãnh đạo SeABank đặc biệt quan tâm.
Trước thực trạng như vậy, trong thời gian làm việc tại SeABank Học viên nhận thấy tính cấp thiết của quản lý rủi ro tín dụng ngày càng lớn nên đã lựa chọn đề tài Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á. Với kết quả nghiên cứu, nhà quản lý của ngân hàng có thể tìm hiểu làm thế nào để sử dụng tất cả nguồn lực sẵn có cho hiệu suất tốt nhất, làm thế nào để phát triển vị thế của mình trên thị trường, làm thế nào để
cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh thị trường ngân hàng khác, và làm thế nào để
vượt qua mọi khó khăn và kiểm soát rủi ro tín dụng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại SeABank.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của SeABank từ năm 2009-2011.
- Thuật ngữ tín dụng sử dụng trong khuôn khổ luận văn này chỉ để nói đến hoạt động cho vay.
Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu những lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại (NHTM).
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại SeABank từ năm 2009- 2011.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại SeABank
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, tổng hợp và so sánh số liệu.
Cấu trúc của luận văn
Tên đề tài: “Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại.
Chương II: Phân tích thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (2009-2011).
Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro
1.1.1. Khái niệm rủi ro:
Rủi ro nói chung là một khái niệm rất rộng cả trong đời sống con người hay trong bất cứ loại hình kinh doanh nào, đã có nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới định nghĩa về rủi ro như sau:
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. [1]
Rủi ro là một khái niệm khách quan, nó hiện hữu khi một hành động hay một tình huống làm cho khả năng thu lợi hoặc thiệt hại là không thể dự đoán được một cách chắc chắn.
Rủi ro là khả năng xảy ra một sự cố không may đem đến thiệt hại về con người và tài sản. Đã nói đến rủi ro là nói đến sự không may mắn, bất cứ sự việc nào xảy ra mà mang lại sự may mắn cho con người và cho tổ chức thì không được gọi là rủi ro.
Hay rủi ro còn được hiểu là khả năng phát sinh tổn thất và bất chắc về tổn thất. Khái niệm này nhấn mạnh vào hậu quả của rủi ro. Rủi ro thường được hiểu là một sự việc xảy ra, gây ra những hậu quả làm thiệt hại về con người hoặc tài sản. Đồng thời không thể đoán biết trước được mức độ thiệt hại của rủi ro đó ước tính là bao nhiêu. Đó là sự không chắc chắn về mức độ tổn thất.
Còn theo Frank Knight: “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” [2].
Theo Allan Willett: “Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố không mong đợi” [2].
Theo Inrving Pferfer: “Rủi ro là tổng hợp những sự cố ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất” [2].
Theo từ điển Kinh tế học hiện đại đã chỉ rõ: “Rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự kiện xảy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự kiện có một phân bố xác suất” [2].
Có nhiều định nghĩa, khái niệm về rủi ro được định nghĩa dưới các hình thức khác nhau, tựu trung lại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định [2].
Rủi ro xảy ra gây nhiều tổn thất về tài sản cho ngân hàng, những tổn thất thường gặp là mất vốn khi cho vay, gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị của tài sản...
Rủi ro cũng làm giảm uy tín của ngân hàng, một ngân hàng kinh doanh bị lỗ liên tục hoặc thường xuyên không đủ khả năng thanh khoản có thể dẫn đến một cuộc rút tiền quy mô lớn và con đường phá sản là tất yếu.
Như một hệ quả rủi ro khiến ngân hàng bị lỗ và bị phá sản, sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người gửi tiền, hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp ứng vốn... Làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng cao, sức mua giảm sút, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng trong nước và khu vực. Ngoài ra sự phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng loạn của hàng loạt ngân hàng khác và ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế.
1.1.2. Phân loại rủi ro:
Có nhiều cách phân loại rủi ro khác nhau tùy theo mục đích, yêu cầu nghiên cứu và tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro thành các loại khác nhau.
- Phân loại theo bản chất: Theo cách phân loại này rủi ro bao gồm:
+ Các rủi ro về kinh tế bao gồm các rủi ro kinh tế vĩ mô (ví dụ sự thay đổi các luật phápvà chính sách gây nên bất lợi cho doanh nghiệp), các rủi ro kinh tế do môi trường kinh doanh của doanh nghiệp gây ra (ví dụ hàng hoá ế ẩm do quan hệ cung cấu bất lợi, tình thế cạnh tranh bất lợi cho doanh nghiệp).
+ Các loại rủi ro trong quá trình sản xuất: Sự cố hỏng hóc của máy móc, gián
đoạn cung cấp điện, nước, tai nạn lao động, cháy, nổ...
+ Các rủi ro do môi trường tự nhiên (động đất, mưa bão, lụt...).
+ Các rủi ro về xã hội và chính trị (thay đổi chính phủ, mức thu nhập của người tiêu thụ thay đổi đột ngột, dịch bệnh, ốm đau, chiến tranh).
- Phân loại theo mức độ khống chế của con người:
+ Rủi ro có thể khống chế.
+ Rủi ro không thể khống chế (bất khả kháng).
- Phân loại theo mức độ khách quan và chủ quan:
+ Rủi ro khách quan, hay còn gọi là rủi ro tự nhiên, rủi ro thuần tuý.
+ Rủi ro có tính chất chủ quan do quyết định sai của con người gây nên
1.1.3. Các loại rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại (NHTM):
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ NHTM cũng gánh chịu các rủi ro do tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp khác. Các ngân hàng quan tâm đến 5 rủi ro chính [3]:
- Rủi ro tín dụng (Credit Risk): Là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
- Rủi ro tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate (Forex) Risk): Là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc kinh doanh ngoại tệ khi tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng.
- Rủi ro lãi suất (Interest Rate Risk): Là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng.
- Rủi ro thanh khoản (Liquidity Risk): Là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
- Rủi ro tác nghiệp (Operational Risk): Là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián tiếp do cán bộ ngân hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động hoặc do các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng.
1.2. Quản lý rủi ro trong ngân hàng thương mại:
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro:
Quản lý rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản lý rủi ro bao gồm năm bước: Nhận
dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm soát, phòng ngừa và tài trợ rủi ro [3].
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín dụng thông qua bộ máy và công cụ để quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các biện pháp hạn chế nhằm không để thất thoát vốn cho vay, tăng tối đa tiền lãi, trong khi giảm tối đa những mất mát trong phạm vi giới hạn về vốn để đạt được mục tiêu an toàn và hiệu quả, phát triển bền vững.
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước, các ngân hàng cần phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích phù hợp và xứng đáng với mức độ rủi ro chấp nhận trước. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được trong phạm vi khả năng nguồn lực tài chính và năng lực ngân hàng.
Quản lý hiệu quả rủi ro tín dụng liên quan đến việc quản lý chặt chẽ mối quan hệ giữa rủi ro, lợi nhuận và kiểm soát giảm thiểu rủi ro tín dụng trong nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như chất lượng tín dụng, mức độ tập trung, loại tiền tệ, thời gian đáo hạn, các hình thức bảo đảm và các loại công cụ tín dụng.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM:
Để hạn chế những rủi ro phải làm tốt từ khâu phòng ngừa cho đến khâu giải quyết hậu quả do rủi ro gây ra, cụ thể như:
Dự báo phát hiện rủi ro tiềm ẩn: Phát hiện những biến cố không có lợi, ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và đang xảy ra và có thể lan ra phạm vi rộng. Giải quyết hậu quả rủi ro để hạn chế các thiệt hại đối với tài sản và thu nhập của ngân hàng. Đây là quá trình logic chặt chẽ do đó cần có quản trị để đảm bảo tính thống nhất.
Phòng chống rủi ro được thực hiện bởi các nhân viên, cán bộ lãnh đạo ngân hàng, trong ngân hàng nhân viên có suy nghĩ và hành động khác, có thể trái ngược hoặc cản trở nhau. Vì vậy cần phải có quản trị để mọi người hành động một cách thống nhất.
Quản trị đề ra những mục tiêu cụ thể giúp ngân hàng đi đúng hướng, phải có kế hoạch hành động cụ thể và hiệu quả phù hợp với mục tiêu đề ra.
Thứ nhất: Rủi ro tín dụng gây ra hậu quả nặng nề đối với các chủ thể tham gia trực tiếp vào quan hệ tín dụng đó là: NHTM và khách hàng. Đối với các khách hàng khi phát sinh rủi ro tín dụng thì phần lớn đều trong tình trạng kinh doanh sa sút hoặt nằm trên bờ vực phá sản còn đối với các NHTM, hậu quả tác động to lớn trên nhiều phương diện:
- Chi phí gia tăng do phải trích lập dự phòng tổn thất hoặc các chi phí liên quan trong vấn đề xử lý các khoản rủi ro đó. Bên cạnh đó do e ngại rủi ro sẽ làm cho các ngân hàng hạn chế cho vay, doanh thu hạn chế khiến hậu quả kinh doanh giảm, thậm chí bị thua lỗ, uy tín và vị thế trên thị trường giảm sút ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng kéo dài làm thất thoát lượng vốn lớn: Vì ngân hàng có chức năng là đi vay để cho vay, đã không thu hồi được nợ trong khi ngân hàng vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, mất cân đối trong thu chi làm cho lợi nhuận bị giảm sút và có thể bị rơi vào mất khả năng thanh toán chi trả hoặc có thể trầm trọng hơn thì dẫn đến tình trạng phá sản.
Thứ hai: Rủi ro tín dụng có thể gây hậu quả đối với hệ thống tài chính của cả quốc gia vì giữa các ngân hàng luôn có sự ràng buộc và liên quan với nhau. Sự ràng buộc tất yếu và ngày càng chặt chẽ này mà rủi ro tín dụng có thể châm ngòi cho hiệu ứng đổ vỡ dây chuyền, khiến hệ thống trung gian tài chính bị khủng hoảng nghiêm trọng mà một số trường hợp điển hình là khủng hoảng đã xảy ra ở Mỹ làm hàng loạt ngân hàng phá sản năm 2008.
Thứ ba: Rủi ro tín dụng có thể gây ra hậu quả tiêu cực tới mọi đối tượng trong xã hội vì bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một trung gian tài chính, là kênh thu hút và bơm tiền cho nền kinh tế. Vì vậy hoạt động ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế và mang tính xã hội hóa cao, nên khi mà rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản của một ngân hàng sẽ làm cho nền kinh tế bị rối loạn, hoạt động kinh tế mất ổn định, làm giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực các chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.