Các Quy Định Về Chủ Thể Quản Lý Tài Sản Phá Sản

dụng đất có thể được xác định giá trị trong trường hợp nhà nước thu hồi đất hoặc trong trường hợp thông thường. Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật đất đai mới chỉ có các hướng dẫn xác định giá trị quyền sử dụng đất chung cho mọi trường hợp.

Thứ năm áp dụng pháp luật hác nhau đối với quy định về mở tài hoản ngân hàng để gửi các hoản tiền thu được trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp

Tại điểm i, Khoản 1, Điều 16 quy định quyền và nghĩa vụ của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản: “gửi các hoản tiền thu được vào tài hoản do T a án nhân dân Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng”. Như vậy, trong giai đoạn mở thủ tục phá sản tại Tòa án, sau khi có quyết định chỉ định quản tài viên của thẩm phán có thẩm quyền thì quản tài viên được chỉ định đó phải gửi các khoản tiền thu được trong quá trình thực hiện việc quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán vào một tài khoản ngân hàng do Tòa án nhân dân có thẩm quyền mở. Với nội dung quy định này đã gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành ở các địa phương khác nhau. Cụ thể, có Tòa án tiến hành chỉ mở một tài khoản ngân hàng do Chánh án Tòa án nhân dân cấp đó làm chủ tài khoản và tất cả số tiền thu được từ các vụ phá sản khác nhau đều nộp chung vào đó. Cũng có Tòa án lại mở từng tài khoản ngân hàng riêng cho mỗi vụ phá sản và chủ tài khoản ngân hàng đó vẫn là Chánh án, hoặc có nơi thì mở từng tài khoản ngân hàng khác nhau cho mỗi vụ phá sản và chủ tài khoản đó chính là thẩm phán được phân công giải quyết từng vụ phá sản cụ thể đó. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do luật không có quy định cụ thể, rõ ràng và hiện nay cũng chưa có văn bản cụ thể nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về vấn đề này.

Thứ sáu thiếu sự phối hợp chặt ch giữa thẩm phán và quản tài vi n trong việc xác định tài sản phá sản.

Bên cạnh đó, Điều 16 cũng quy định nghĩa vụ quản tài viên cũng rất quan trọng như xác minh, thu thập, quản lý tài liệu chứng cứ liên quan đến hoạt động quản lý của doanh nghiệp, lập bảng kê danh sách tài sản của chủ nợ, danh sách người mắc nợ; bảo quản tài sản, bán tài sản… Tuy nhiên, sự phối hợp giữa thẩm phán và quản tài viên chưa chặt chẽ; đội ngũ quản tài viên thực sự chưa có chuyên môn cao dẫn đến việc thực hiện đầy đủ quyền của quản tài viên trong vụ việc phá sản còn mờ nhạt dẫn đến tiến độ giải quyết án phá sản rất chậm.

3.2.2. Các quy định về chủ thể quản lý tài sản phá sản

3.2.2.1. Tòa án

Tòa án có vai trò là chủ thể nhân danh Nhà nước đứng ra quản lý tài sản của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ nợ và người có liên quan. Trong mối quan hệ với các hoạt động quản lý tài sản phá sản, thẩm quyền của tòa án/thẩm phán phụ trách mang tính gián tiếp thông qua các thẩm quyền liên quan đến hoạt động quản lý tài sản phá sản trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản.

Về thẩm quyền, theo quy định của pháp luật, thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản có một số quyền hạn, nhiệm vụ liên quan đến quản lý tài sản phá sản như sau:

Thứ nhất quyền chỉ định thay đổi giám sát hoạt động Quản tài vi n doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.

Theo đó, Khoản 3 và 4 Điều 9 Luật Phá sản 2014 quy định một số nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản liên quan đến hoạt động quản lý tài sản phá sản gồm thẩm quyền chỉ định hoặc thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và giám sát hoạt động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản không trực tiếp tham gia quản lý tài sản phá sản nhưng lại là chủ thể không thể thiếu, có vai trò giám sát, kiểm tra hoạt

động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình thực hiện các biện pháp liên quan đến quản lý tài sản phá sản.

Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay - 13

Thứ hai quyền quyết định iểm toán doanh nghiệp mất hả năng thanh toán trong trường hợp cần thiết.

Khoản 5 Điều 9 Luật Phá sản 2014 quy định về thẩm quyền của thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản trong việc quyết định việc kiểm toán doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong trường hợp cần thiết. Điều này để đảm bảo tính minh bạch, trung thực của các thông tin tài chính mà doanh nghiệp đưa ra, tạo thuận lợi cho hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp.

Thứ ba quyền quyết định áp dụng các biện pháp hẩn cấp tạm thời.

Khoản 7 Điều 9 Luật Phá sản 2014 quy định thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản còn có quyền xem xét và chấp thuận những đề nghị của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về đề nghị bán tài sản của doanh nghiệp, đề nghị thu thập tài liệu, chứng cứ; đề nghị áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính…

Như vậy, có thể thấy trong Luật Phá sản 2014, vai trò của Tòa án trong quản lý tài sản phá sản đã thu hẹp nhiều so với các đạo luật trước đó nhằm hạn chế tình trạng quá tải cho thẩm phán, đồng thời, nó thể hiện sự phù hợp của pháp luật về quản lý tài sản phá sản với xu hướng thế giới, khi mà việc quản lý tài sản phá sản thường chủ yếu được thực hiện bởi người quản lý do các chủ nợ thỏa thuận lựa chọn và khi đó, Tòa án chỉ có vai trò trong việc thừa nhận tính hợp pháp của thỏa thuận đó giữa các chủ nợ mà thôi. Tuy nhiên, điều này vẫn sẽ đảm bảo vai trò chủ đạo và xuyên suốt của tòa án trong suốt quá trình quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp cũng như các trình tự, thủ tục phá sản khác.

Các quyết định tư pháp của thẩm phán có vai trò quan trọng trong việc bắt đầu hay kết thúc một trình tự pháp lý trong tố tụng phá sản. Ví dụ như quyết định mở thủ tục phá sản đối với một doanh nghiệp sẽ là căn cứ pháp lý để khởi động và thực hiện các biện pháp quản lý tài sản của doanh nghiệp mất

khả năng thanh toán. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, thẩm phán vẫn có những lúng túng nhất định khi đưa ra các quyết định pháp lý quan trọng này. Ví dụ: trước yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ và sự phản ứng gay gắt của doanh nghiệp mắc nợ trong các trường hợp nêu trên, các Thẩm phán thường lúng túng, dẫn đến quan điểm khác nhau khi xem xét, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp theo quy định tại Điều 42 Luật Phá sản và khi xem xét, giải quyết đề nghị xem xét lại quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án cấp dưới theo quy định tại Điều 44 Luật Phá sản.

Ví dụ vụ việc phá sản Công ty Cổ phần Xây dựng Công nghiệp:

Sau khi xem xét đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của một chủ nợ không có bảo đảm đối với Công ty cổ phần Xây dựng Công nghiệp, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định mở thủ tục phá sản số 867/2017/QĐ-MTTPS ngày 28/9/2017 đối với công ty này vì người nộp đơn đã chứng minh được rằng doanh nghiệp bị yêu cầu có khoản nợ quá hạn hơn 3 tháng chưa được thanh toán. Sau khi nhận được Quyết định mở thủ tục phá sản nói trên, DN bị mở thủ tục là Công ty cổ phần Xây dựng Công nghiệp đã có đơn đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét lại với yêu cầu hủy bỏ quyết định mở thủ tục phá sản đối với mình vì cho rằng doanh nghiệp có đủ tài sản để thanh toán nợ, tức là đủ khả năng để thanh toán khoản nợ mà chủ nợ nộp đơn yêu cầu thanh toán (với chứng cứ chứng minh là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp).

Căn cứ vào các báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Xây dựng Công nghiệp, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận đề nghị của doanh nghiệp này, ra Quyết định số 46/2017/QĐ-PT hủy Quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (vì cho rằng Công ty cổ phần Xây dựng Công nghiệp có đủ tài sản để thanh toán nợ chứ không mất khả năng thanh toán). Không đồng tình với quyết định nói trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi báo cáo Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân Thành phố, Thẩm phán ra Quyết định mở thủ tục

phá sản đã có đơn khiếu nại gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao (đến nay chưa có kết quả trả lời)

3.2.2.2. Quản tài viên/Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

Pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của pháp luật phá sản. Qua các văn bản pháp luật về phá sản từ trước tới nay, có thể nói, các quy định pháp luật về quản lý tài sản phá sản ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt liên quan đến mô hình chủ thể quản lý tài sản phá sản, được coi là một nội dung quan trọng trong pháp luật về quản lý tài sản phá sản.

Trước đây, theo Luật Phá sản 2004, việc quản lý tài sản phá sản được thực hiện bởi Tổ Quản lý và thanh lý tài sản phá sản. Thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản phần lớn là những người thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, công việc kiêm nhiệm này không phải là chuyên môn, nghiệp vụ chính của thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản, do đó khi xử lý công việc cụ thể tại doanh nghiệp thường hay lúng túng, bị động. Hơn nữa, theo quy định, Tổ quản lý và thanh lý tài sản còn có chức năng giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp trong kinh doanh, thế nhưng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại diễn ra thường xuyên liên tục, không theo giờ hành chính. Vì thế, nếu các hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã phải chờ sự giám sát, quản lý xong mới được tiến hành là không phù hợp và đáp ứng được với thực tế kinh doanh. Cách thiết kế này đã làm phát sinh nhiều hệ quả phức tạp, như sự không thống nhất giữa thành viên trong việc đánh giá, kết luận về tài sản phá sản cũng như các biện pháp liên quan đến tài sản của doanh nghiệp. Điều này có thể không những làm kéo dài việc giải quyết mà còn gây không ít trở ngại cho sự quản lý tài sản phá sản của Tổ Quản lý.

Do đó, khi xây dựng Dự thảo Luật Phá sản 2014, có ý kiến cho rằng cần sửa đổi, bổ sung theo hướng tách Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành hai Tổ độc lập: Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản. Điều này đảm bảo tính

chuyên môn hoá cho quá trình quản lý cũng như xử lý tài sản phá sản. Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng, cần xã hội hoá việc quản lý tài sản phá sản bằng việc có quy định cơ chế để Luật sư hay Quản tài viên thay cho Chấp hành viên làm Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản; ngoài đại diện của chủ nợ và của doanh nghiệp…bị phá sản, các thành viên khác của Tổ quản lý, thanh lý tài sản do Luật sư lựa chọn, hoạt động dưới sự giám sát của Toà án (trực tiếp là Thẩm phán phụ trách). Ngoài ra, có ý kiến khác lại cho rằng, cần có một cơ quan chuyên trách để thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản có tính chuyên nghiệp hơn và việc giải quyết phá sản cũng được nhanh chóng thuận tiện hơn, vì Chấp hành viên là người không đủ điều kiện, cơ sở để xác định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại làm Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản là không phù hợp.

Luật Phá sản 2014 đã được ra đời với một chế định hoàn toàn mới liên quan đến việc xây dựng cơ chế chuyên nghiệp và độc lập cho hoạt động quản lý tài sản phá sản. Đó chính là sự ra đời của đội ngũ Quản tài viên và các doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản. Luật Phá sản năm 2014 đã trao hoạt động quản lý tài sản phá sản cho chủ thể hoạt động chuyên nghiệp với hai loại hình hành nghề là Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Theo đó, điều kiện hành nghề và cơ chế hoạt động của mỗi loại hình được pháp luật quy định khác nhau.

+ Quản tài viên:

Theo khoản 7 Điều 4 Luật Phá sản 2014, Quản tài viên “là cá nhân hành nghề quản lý thanh lý tài sản của doanh nghiệp hợp tác xã mất hả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”. Đồng thời, Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản đã chỉ rõ các quy định về hình thức hành nghề, đăng ký hành nghề, trách nhiệm báo

cáo, chi phí của Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Quản tài viên muốn được hành nghề phải được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên theo điểm c, khoản 2 Điều 12 Luật Phá sản 2014 và khoản 2 Điều 22 Điều 9 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP. Theo đó, điều kiện hành nghề của Quản tài viên gồm a) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan; c) có chứng chỉ hành nghề Quản tài viên.

Liên quan đến chế định Quản tài viên, đã có nhiều ý kiến khác nhau về vị trí “nghề nghiệp” của Quản tài viên. Có quan điểm cho rằng Quản tài viên nên được xem như là một nghề độc lập mang tính bổ trợ tư pháp. Nhưng cũng có quan điểm khác cho rằng không ai khuyến khích doanh nghiệp phá sản để phát triển “nghề” quản lý tài sản phá sản cả. Do đó, không nên đưa ra các tiêu chí đối với quản lý tài sản phá sản như một nghề độc lập. Trên thực tế, những người được xem xét cấp chứng chỉ hành nghề quản lý tài sản phá sản như luật sư, kiểm toán viên đều đã được kiểm soát chặt chẽ, được ràng buộc với các tiêu chuẩn của nghề luật sư, kiểm toán… Do đó, đối với quản lý tài sản phá sản có thể tổ chức cấp chứng chỉ hành nghề theo một cách thức đơn giản. Tiếp thu cả hai quan điểm trên, Luật Phá sản 2014 đã quy định Quản tài viên được xem như một nghề bổ trợ tư pháp. Theo đó, để trở thành Quản tài viên, cá nhân phải được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên, tương tự như chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên, luật sư, công chứng viên, thừa phát lại hiện nay. Tuy nhiên, sẽ không có cơ chế đào tạo nghề mang tính độc lập như đào tạo các nghề bổ trợ tư pháp khác mà đội ngũ Quản tài viên sẽ được lấy từ đội ngũ: (i) Luật sư; (ii) Kiểm toán viên; (iii) Người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo (khoản 1 Điều 12 của Luật Phá sản năm 2014).

Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định chi tiết những đối tượng không được phép hành nghề quản lý, thanh lý tài sản (Điều 14 Luật Phá sản 2014),

gồm cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; người đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Ngoài ra, Quản tài viên còn phải tuân thủ các nguyên tắc hành nghề nhất định, gồm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên; bảo đảm tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch, khách quan; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề. Hơn nữa, để đảm bảo tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch, khách quan của Quản tài viên, pháp luật cũng quy định về xác định trách nhiệm của Quản tài viên. Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định: “Tại c ng một thời điểm người có chứng chỉ hành nghề Quản tài vi n chỉ được đăng ý hành nghề quản lý, thanh lý tài sản ở một doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản hoặc đăng ý hành nghề với tư cách cá nhân”. Khoản 4 Điều 7 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định về trách nhiệm “Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật đối với trường hợp Quản tài vi n hành nghề với tư cách cá nhân” làm cơ sở cho việc chịu trách nhiệm của Quản tài viên. Đồng thời, pháp luật cũng quy định các trường hợp Quản tài viên phải từ chối thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản (Điều 19 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP) nếu Quản tài viên là người có liên quan với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc khi có căn cứ cho rằng Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản, cơ quan thi hành án dân sự có yêu cầu trái với quy định của pháp luật, nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản hoặc không phù hợp với Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên.

Xem tất cả 214 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí