Người Từ Đủ 16 Tuổi Trở Lên Phải Chịu Trách Nhiệm Hình Sự Về Mọi Tội Phạm.

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên.

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%.

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100% nếu không thuộc các trường hợp trên.

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng.

+ Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng [9].

Ngoài những thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được nêu trên còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Cần chú ý trường hợp tài sản bị chiếm đoạt dưới 500 nghìn đồng nếu gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999, nếu không có tình tiết định khung hình phạt khác [9].

- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt: Tức là trước đó đã bị xử lý bằng một trong các hình thức sau đây về hành vi chiếm đoạt, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý mà lại thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của điều

lệnh, điều lệ của lực lượng vũ trang vũ trang nhân dân. Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền [9].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

+ Hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý là hết thời hạn do Pháp lệnh, điều lệnh hoặc điều lệ quy định. Điều 10 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu quá 1 năm, kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết hiệu lực thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Đối với các trường hợp bị xử lý mà chưa có quy định về thời hạn để được coi là chưa bị xử lý, thì thời hạn đó là một năm kể từ ngày bị xử lý [9].

Bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi sau: Cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản [9].

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 3

- Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm: Là trường hợp trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã bị Tòa án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt nhưng chưa được xóa án tích theo quy định tại Điều 63, 64, 65, 77 Bộ luật hình sự 1999. Tội chiếm đoạt tài sản là một trong các tội sau: Cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự), bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134 Bộ luật hình sự), cưỡng đoạt tài sản (Điều 135 Bộ luật hình sự), cướp giật tài sản (Điều 136 BLHSĐ), công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137 Bộ luật hình sự), trộm cắp tài sản (Điều 138 Bộ luật hình sự), lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 Bộ luật hình sự), lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự), tham ô tài sản (Điều 278 Bộ luật hình sự), lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280 Bộ luật hình sự) [9].

Ngoài các trường hợp cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên, theo quy định tại phần chung Bộ luật hình sự 1999 nếu người phạm tội

có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã có những hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm nhưng chưa chiếm đoạt được vì những nguyên nhân khách quan vẫn có thể bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tùy vào từng trường hợp cụ thể [7].

Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện".

Điều 18 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "…Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt".

Đối chiếu hai điều luật trên với Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 ta

thấy:

- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, chỉ xem xét các tình tiết thuộc

khoản 3 và 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999. Người mới có hành vi chuẩn bị phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì đã bị phát hiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này ở giai đoạn chuẩn bị nếu tài sản có ý định chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đồng trở lên (theo các điểm a khoản 3 và khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999). Ví dụ: A đã chuẩn bị sẵn những mẫu hóa đơn, chứng từ, đã khắc con dấu giả hoặc có hành vi làm giả hóa đơn, chứng từ để chiếm đoạt tài sản thì bị phát hiện và đã khai nhận ý đồ phạm tội của mình. Nếu tài sản mà A định chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đồng trở lên thì A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng" (điểm b khoản 3) và "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" (điểm b khoản 4) không được đặt ra vì các hậu quả này là hậu quả của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra, mà trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội kẻ phạm tội chưa thực sự có hành vi phạm tội nên không thể nói đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hay hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

- Người đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt trong mọi trường hợp.

Việc xác định đúng giá trị tài sản bị chiếm đoạt đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp nào chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng đúng khung hình phạt. Do đó, cần chú ý một số điểm sau đây trong việc xác định giá trị tài sản đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

+ Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định căn cứ vào kết luận của Hội đồng định giá do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu kết luận về trị giá tài sản bị chiếm đoạt. Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì, nhãn mác của tài sản đó như thế nào, giá trị tài sản đó theo thời giá thực tế tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm là bao nhiêu, tài sản đó còn khoảng bao nhiêu phần trăm… để có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị xâm phạm.

+ Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm. Nếu người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không quan tâm đến giá trị của tài sản bị chiếm đoạt, thì căn cứ vào giá trị thực của tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

+ Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết

án nhưng chưa được xóa án tích…), đồng thời trong các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần chiếm đoạt bằng hoặc trên mức 500.000 đồng thì người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu:

- Các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

- Việc thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp, lấy tài sản bị chiếm đoạt làm nguồn sống chính.

- Với mục đích chiếm đoạt, nhưng do điều kiện khách quan nên việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị chiếm đoạt mỗi lần dưới 500 ngàn đồng.

Ngoài hậu quả (giá trị tài sản bị chiếm đoạt) là dấu hiệu định tội được phân tích ở trên thì thực tế hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn gây hậu quả nguy hiểm khác (ngoài hành vi xâm phạm chủ yếu của khách thể trực tiếp) đó là những thiệt hại về tài sản, về thể chất hoặc những hậu quả phi vật chất khác diễn ra ở những cấp độ khác nhau thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những hậu quả này thường phát sinh do việc tài sản bị chiếm đoạt (có mối quan hệ nhân quả giữa việc tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả). Do đó khi xác định hậu quả là thiệt hại về tài sản thì phải xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Hậu quả phi vật chất ở đây được biểu hiện: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những thiệt hại phát sinh này, tùy từng vụ án và tình hình cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đã gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng hay gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự (theo khoản 1 Điều Bộ luật hình sự 1999). Chiếm đoạt tài sản dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả rất nghiêm

trọng) hay để làm căn cứ quyết định hình phạt (theo điểm g khoản 2, các điểm b khoản 3 và khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999).

Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm

Việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ phải xác định hậu quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà còn đòi hỏi làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi lừa đảo với hậu quả đó. Bởi vì, con người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra [22].

Mối quan hệ nhân quả ở đây được biểu hiện:

- Hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản.

- Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu quyết định việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội.

Vì việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội nên việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trên không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội mà còn có ý nghĩa trong quyết định hình phạt.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, tức là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và người bị hại đã mất khả năng làm chủ được tài sản đó trên thực tế.

1.1.3. Chủ thể

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [16].

Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt

độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật hình sự 1999) [7], [9].

Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [7].

Như vậy, theo Điều 12 Bộ luật hình sự 1999, chúng ta thấy chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn độ tuổi sau:

- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999.

- Người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu có hành vi phạm tội thuộc kKhoản 3 hoặc khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 vì đây là tội rất nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù) và là tội đặc biệt nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình).

Người dưới 14 tuổi dù có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên có thể phải chịu những biện pháp khác ngoài các chế tài hình sự để giáo dục.

Do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên không có sự ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Trừ một

số người được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Khi nghiên cứu về chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải chú ý đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội như: nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hóa, đời sống kinh tế, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự… Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

1.1.4. Mặt chủ quan

Tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Nếu mặt khách quan là biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội [16].

Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không nêu dấu hiệu lỗi của người phạm tội, tuy nhiên xét theo bản chất và tính chất của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì về mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện do lỗi cố ý trực tiếp với mục đích chiếm đoạt tài sản.

* Dấu hiệu lỗi

Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc "quy tội khách quan", nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. "Một hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi, nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội" [21].

Lỗi cố ý trực tiếp trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện:

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 12/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí