Các Giải Pháp Hỗ Trợ Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Dnn&v Xuất Khẩu Hàng Nông Thủy Sản

Tăng cường các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra thị trường nước ngoài, nhất là đầu tư trong khâu hoàn thiện sản phẩm nông sản, thực phẩm (ví dụ như chế biến và đóng gói chè, cà phê,…) để tránh các hàng rào thuế và phi thuế do nước nhập khẩu đặt ra. Xóa bỏ thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài và đơn giản hóa thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường nước ngoài.

3.3.1.3. Nghiên cứu thị trường

Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản và hành lang pháp lý cho cơ chế vận hành thị trường

Ở nước ta, do trình độ sản xuất hàng hóa của các vùng có sự chênh lệch nhau khá lớn, cơ sở hạ tầng lại yếu kém nên câu trúc thị trường còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ cả về mặt pháp lý. Sự điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong bối cảnh đó còn bộc lộ nhiều mặt tiêu cực làm cho thị trường và giá cả còn biến động khá lớn, sự khan hiếm và dư thừa nông sản cục bộ và giả tạo (thóc gạo, cà phê, chè, hạt điều, cao su…) Mặt khác chưa khai thác và phát huy tốt thị trường trong nước, nhất là thị trường nông thôn sức mua thấp, nhiều vùng còn hoang sơ, đơn giản, cạnh tranh hỗn loạn và còn nhiều yếu tố đầu cơ trục lợi…[14].

Để thực hiện chủ trương của Đảng trong việc xây dựng đồng bộ các loại thị trường, tạo môi trường cho sự vận động của hàng hóa theo cơ chế thị trường có trật tự, chúng ta cần phải:

- Một là: không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng cường giao lưu nông sản trên tất cả các vùng đáp ứng nhu cầu sản xuất - tiêu dùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động xã hội và tăng cường áp dụng đổi mới công nghệ. Từng bước tham gia vào phân công lao động hợp tác quốc tế, thực hiện chính sách thương mại mở. Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới phân phối, đại lý, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm hàng hóa, áp dụng các hình thức mua bán thanh toán linh hoạt.

- Hai là: đa dạng hóa các kênh và cấp độ lưu thông để hàng hóa lưu thông một cách xuyên suốt và nhanh nhất, chi phí thấp nhất từ sản xuất đến các địa chỉ tiêu dùng (trong nước và xuất khẩu). Chú trọng các kênh vừa và nhỏ tương ứng với “quy mô cung - cầu” ở thị trường khu vực. Đồng thời, từng bước xây dựng các kênh và cấp độ lưu thông hàng hóa lớn, thúc đẩy và thống nhất thị trường toàn quốc, đáp ứng cho nhu cầu của các thị trường trên thế giới. Hoàn thiện thương mại trung gian, tạo ra các kênh tiêu thụ hàng hóa lớn, góp phần giải quyết và điều chỉnh quan hệ “cung - cầu” và hướng dẫn sản xuất ( bao gồm: hỗ trợ vốn, khoa học công nghệ cho sản xuất và bao tiêu sản phẩm…)

- Ba là: trong cấu trúc thị trường đa dạng nói trên, coi trọng vai trò của mô hình đặc thù: “chợ, tụ điểm thương mại” ở nông thôn. Sự gắn kết các chợ nông thôn, để từng bước hiện đại thị trường thông qua hình thức phát triển các cụm kinh tế - văn hóa kỹ thuật - thương mại - dịch vụ cho các vùng sản xuất hàng hóa và các cơ sở chế biến bảo quản. Quy hoạch hệ thống thương mại góp phần thúc đẩy nhân tố thương mại trong các vùng và nông thôn.

+ Đối với các vùng sản xuất tập trung nông thủy sản xuất khẩu thì khuyến khích hình thành các hệ thống tiêu thụ dài, sâu và rộng với cấp độ lưu thông tiêu thụ hàng hóa lớn đủ sức cạnh tranh. Tức là, thực hiện tổ chức xây dựng mô hình gắn kết kinh doanh với sản xuât, cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu…Tạo nên sự gắn kết giữaTrung ương và người sản xuất bằng các yếu tố: kỹ thuật, vốn, công nghệ và thị trường. Hình thành nguồn hàng và bạn hàng đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới mà được thể hiện trên những vùng nông thôn mới phát triển toàn diện cả về kinh tế - văn hóa - kỹ thuật - dịch vụ - thương mại. Hạn chế độc quyền bằng việc mở rộng các đầu mối xuất khẩu, có các thành phần kinh tế và công ty đa quốc gia tham gia trực tiếp xuất khẩu, độc lập và bình đẳng. Nên tổ chức và quy hoạch lại hệ thống

thương mại (bao gồm cả hệ thống thương mại trung gian), tránh các biểu hiện về “nhiễu kênh” gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu dùng. Giảm đầu mối thương mại trung gian kinh doanh theo kiểu “ chụp giập, đầu cơ trục lợi” làm rối loạn thị trường. Xác định và quyết định các tổ chức thương mại trung gian, từ đó phải có sự hỗ trợ dưới hình thức như hỗ trợ vốn và kỹ thuật công nghệ cho các hộ sản xuất và nuôi trồng nông thủy sản, định hướng và hướng dẫn nông dân sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường. Khuyến khích mở văn phòng đại diện và đại lý ở nước ngoài, gắn kết trách nhiệm lâu dài giữa sản xuất - chế biến và tiêu thụ, nâng cao vị thế của các ngành hàng xuất khẩu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

+ Đối với những vùng nguyên liệu tập trung cho công nghệ chế biến nông thủy sản, khuyến khích các công ty chế biến, thương mại mở rộng đại lý thu gom nông thủy sản nguyên liệu dưới hình thức hợp đồng với nông dân, tạo gắn kết thương mại chế biến và sản xuất cho hộ nông dân, mở rộng đại lý tiêu thụ sản phẩm từng bước mở rộng và chiếm lĩnh thị trường góp phần ổn định điều hòa thị trường toàn quốc.

- Bốn là: mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản nước ngoài: xúc tiến thành lập tổ chức khuyến khích thương mại thộc Chính phủ, có nhiệm vụ khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, trao đổi thông tin, khoa học và công nghệ. Tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin về hệ thống thương mại thị trường của Việt Nam và các nước khác, cung cấp dịch vụ điều tra thông tin kinh doanh của các công ty nước ngoài của Việt Nam cho các bên đối tác, dịch vụ thương mại thanh toán quốc tế và các nước có mối quan hệ thương mại với Việt Nam, dịch vụ thông tin quốc tế tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau.

Chiến lược dài hạn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam xuất khẩu hàng nông sản ra nước ngoài - 13

Định hướng mở rộng xuất khẩu

Qua nghiên cứu lợi thế, đặc điểm và triển vọng thị trường nước ngoài, thời gian tới với ngành hàng nông thủy sản cần mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong chiến lượng xâm nhập và mở rộng thị trường, cần chọn thị trường trọng

điểm, sản phẩm mũi nhọn (có tính chiến lược) cho từng khối, từng khu vực (gây uy tín, tạo hình ảnh sản phẩm Việt Nam…) và lấy đó làm điểm tựa để mở rộng và lan tỏa váo các nước khác trong khu vực và trong cả khối.

- Một là: phát triển mạnh công tác thị trường cả ở tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện “chông chờ vào Nhà nước” và “để mặc cho doanh nghiệp”. Đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường nhập siêu, đàm phán để thống nhất hóa các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật chế biến thực phẩm và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi thuế quan. Tăng cường mạnh mẽ các thông tin về các thị trường từ tình hình chung cho tới cơ chế chính sách nhập khẩu nông sản của các nước bạn hàng, dự báo các chiều hướng cung cầu trên thị trường thế giới và khu vực về các loại hàng hóa xuất nhập khẩu chủ lực của nước ta.

- Hai là: đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông thủy sản. Tăng cường nghiên cứu các công trình xuất khẩu trọng điểm để đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa nông sản, thủy sản cho nông dân, nhất là các tỉnh miền Bắc xa xôi thông qua các hoạt động từ điều tra quy hoạch đến tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Trong lúc tăng cường tìm kiếm thị trường xuất khẩu không được xem nhẹ tiêu thụ hàng hóa nông thủy sản trên thị trường nội địa. Có chế độ khuyến khích thỏa đáng đối với tổ chức và cá nhân (các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của nước ta và nước ngoài) tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp, tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế.

Ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các chính sách khuyến khích của Nhà nước để tổ chức tiếp cận và phân

tích, khai thác thông tin; trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua các hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị.

- Ba là: để đảm bảo xuất khẩu tốt các sản phẩm, chúng ta cần có sự hiểu biết đầy đủ sâu sắc về các thị trường riêng biệt, cần xây dựng chính sách thích hợp với từng thị trường riêng biệt, chú trọng các thị trường truyền thống, mở rộng ra những thị trường mới.

+ Thị trường ASEAN.

+ Thị trường Trung Quốc.

+ Thị trường Nhật Bản.

+ Thị trường Nga và Đông Âu.

+ Thị trường EU.

+ Thị trường Mỹ.

+ Thị trường Châu Phi.


3.3.2. Các giải pháp hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNN&V xuất khẩu hàng nông thủy sản

3.3.2.1. Giải pháp về vốn và công nghệ

Tăng cường năng lực tài chính cho DNN&V

Đây được coi là nhóm chính sách trọng tâm cần giải quyết trong thời gian tới. Để nâng cao năng lực vốn, từ đó làm đòn bẩy để thúc đẩy DNN&V phát triển. Chính phủ nên xem xét thực hiện các giải pháp sau:

- Thứ nhất, đẩy nhanh việc thành lập và vận hành quỹ bảo lãnh tín dụng, giúp DNN&V có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quỹ bảo lãnh tín dụng hiện đang được xem là một trong những biện pháp hiệu quả để cải thiện năng lực nguồn vốn cho DNN&V [10].

Ngày 20/12/2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 193/2001/ QĐ - TTG về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNN&V. Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn cho các DNN&V vẫn là điều mong mỏi với các DNN&V khi chưa tìm ra phương án huy động vốn hiệu quả cho Quỹ. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, phần lớn các quỹ bảo lãnh tín dụng đều có một tỷ lệ nhất định từ ngân sách Nhà nước, số còn lại huy động từ khu vực ngân hàng và các nguồn khác. Trong trường hợp của Việt Nam, chính phủ có thể cân nhắc một phần vốn hoạt động cho quỹ có thể bố trí tư ngân sách Nhà nước và phần còn lại có thể huy động từ nguồn vốn của các tổ chức nước ngoài như JBIC, SNV, UNDP…

- Thứ hai, điều chỉnh chính sách về tài sản thế chấp đối với các khoản vay. Hiện nay phần lớn các DNN&V không thể vay vốn ngân hàng vì không có tài sản thể chấp. Do đó nhiều ngân hàng đã cho phép doanh nghiệp dùng tài sản được hình thành từ các khoản vay để thế chấp hoặc dùng hàng hóa làm tài sản thể chấp. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn không thể đáp ứng được yêu cầu này của ngân hàng về tài sản thể chấp. Trong những trường hợp nhất định, ngân hàng có thể đánh giá tiềm năng và giá trị của các dự án kinh doanh khả thi để cho vay và cùng với doanh nghiệp giám sát việc thực hiện kế hoạch kinh doanh đó để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Lúc đó, ngân hàng có thể coi bản kế hoạch kinh doanh tốt đó như một tài sản thể chấp có giá trị thay cho các tài sản khác.

- Thứ ba, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua. Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua là giải pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Với hình thức này, các ngân hàng thương mại tháo gỡ được tình trạng “đóng băng” về vốn và đảm bảo an toàn hơn hình thức thế chấp tài sản. Tín dụng thuê mua là loại hình tín dụng trung gian dài hạn, người có nhu cầu vay vốn không nhận tiền mua sắm thiết bị, tài sản cho mình mà nhận trực tiếp tài

sản phù hợp với nhu cầu sử dụng. Người đi thuê sẽ thanh toán bằng tiền thiết bị đó theo phương thức trả dần và sau một thời hạn sử dụng nhất định có thể mua lại chính tài sản đó.

Trong điều kiện khủng hoảng kinh tế được dự báo là sẽ mạnh mẽ hơn và kéo dài đến hết năm 2009 như hiện nay, các ngân hàng thương mại gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh, việc cho vay vốn trung hạn và dài hạn gặp khó khăn.

- Thứ tư là giải pháp thị trường hóa các khoản nợ. Hiện nay các DNN&V chiếm dụng vốn lẫn nhau rất nhiều khiến cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn giả tạo. Nhiều khi ngân hàng thương mại cũng phải đeo đẳng các khoản nợ cho vay mà không có cách gì thu hồi vốn trước ngày đáo hạn hoặc đã quá hạn. Vì thế, nhiều nhà kinh tế cho rằng trong nền kinh tế Việt Nam, tín dụng danh nghĩa là ngắn hạn nhưng thực tế nợ phát sinh kéo dài gần như trung hạn và dài hạn. Việc thị trường hóa các khoản nợ thực chất sẽ giúp các DNN&V thoát khỏi tình trạng thiếu vốn do bị chiếm dụng. Thương phiếu sẽ được dùng để ghi giá trị các khoản nợ và được coi là công cụ tín DNN&Vụng thương mại có tác dụng làm lưu thông hóa các khoản nợ ở nhiều nước trên thế giới. Với tờ thương phiếu, khi chủ nợ cần thu hồi vốn trước ngày đáo hạn họ có thể bán món nợ này cho ngân hàng thương mại dưới hình thức chiết khấu. Khi ngân hàng thương mại thiếu hụt vốn có thể bán lại món nợ này cho ngân hàng Trung ương với hình thức tái chiết khấu. Nhờ đó, thương phiếu sẽ giúp các doanh nghiệp và các ngân hàng thoát khỏi tình trạng thiếu hụt vốn triền miên trong kinh doanh và giúp cho nhiều DNN&V vượt qua những khó khăn về tài chính.

- Thứ năm, cần phải tạo ra một “sân chơi bình đẳng” để tất cả các loại hình doanh nghiệp tuân thủ các thể lệ tín dụng như nhau và được hưởng những ưu đãi và điều kiện tín dụng của Nhà nước như nhau. Về vấn đề này, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm qua đã chứng minh một điều quan

trọng là phải đảm bảo để tất cả các khoản tín dụng được thực hiện trên cơ sở phân tích tài chính, chứ không phải bởi các quyết định chính trị, bao gồm cả vốn vay cho các DNN&V. Để đảm bảo được điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải nắm bắt được các thông tin của khác hàng từ nhiều kênh khác nhau, chấn chỉnh hệ thống kế toán, đảm bảo khả năng cập nhập số liệu hằng ngày. Ngoài ra, ngân hàng có thể tư vấn cho các DNN&V cách thức xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh khả thi, quản lý tốt đồng vốn. Xóa bỏ được tình trạng ngân hàng không giải ngân được trong khi các DNN&V lại thiếu vốn.

Giải pháp về công nghệ

Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu sắc như hiện nay, các DNN&V Việt Nam sẽ phải giảm bớt sự phụ thuộc của mình vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước và những sản phẩm dựa trên chi phí lao động thấp, để chuyển dịch lên trên trong chuỗi giá trị và tránh cái bẫy chi phí lao động thấp phải có chính sách mới để đảm bảo sự năng động cho nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức, nâng cao năng lực khoa học công nghệ và đảm bảo liên tục năng suất chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ.

- Thứ nhất, tạo áp lực đổi mới công nghệ. Nhà nước phải thực thi các chính sách nhằm tạo ra áp lực đổi mới công nghệ, tạo thế chủ động trong quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với hàng hóa của các nước khác. Chính phủ có thể ban hành các chính sách quy định về thời gian, thời hạn đình chỉ hoạt động đối với DNN&V sử dụng công nghệ cần thay thế, loại bỏ gồm có: công nghệ các ngành thuộc nhóm sản phẩm cạnh tranh và công nghệ tạo mức ảnh hưởng lớn về môi trường.

- Thứ hai, cần có các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thuê mua tài chính, bán trả góp để các DNN&V thiếu vốn có thể nâng cấp máy móc thiết bị tốt hơn. Cho thuê tài chính cho phép các DNN&V tiếp cận được công nghệ hiện đại chỉ với một hợp đồng cho thuê tài chính thay vì phải bỏ ra một khoản tài chính khổng lồ. Sau khi ký hợp đồng, DNN&V sẽ lựa chọn cho

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/04/2022