Phân Tích Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Việt Nam Xuất Khẩu Hàng Nông Thuỷ Sản Ra Nước Ngoài Thông Qua Ma Trận Swto‌

2.4. PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THUỶ SẢN RA NƯỚC NGOÀI THÔNG QUA MA TRẬN SWTO‌

Như đã nêu trong chương 1, vai trò của các DNN&V là rất lớn khi có tới gần 97% các doanh nghiệp ở nước ta là DNN&V. Vì thế, thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNN&V Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông thủy sản có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của toàn ngành. Nhưng hiện nay các DNN&V Việt Nam nói chung và các DNN&V xuất khẩu nông thủy sản nói riêng đang phải cạnh tranh trên thị trường hội nhập toàn cầu với rất nhiều những khó khăn thách thức. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng mạnh mẽ cũng mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Điều đó sẽ được phân tích cụ thể trong mô hình sau về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho những DNN&V Việt Nam.

2.4.1. Điểm mạnh


So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác đang tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế như các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các công ty đa quốc gia thì DNN&V có các điểm mạnh như sau:

- Dễ khởi nghiệp, hầu hết các DNN&V đều dễ dàng có thể bắt đầu ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh và một số ít vốn cũng như lao động nhất định. Việc thành lập loại hình doanh nghiệp này gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Vì thế, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả những doanh nhân, những người có ý tưởng và khả năng kinh doanh làm chủ chính doanh nghiệp của họ. Điều này tạo ra sự chọn lọc những DNN&V kinh doanh và cạnh tranh tốt. Rất nhiều doanh nghiệp lớn, các công ty đa quốc gia trên thế giới đi lên từ những DNN&V.

- Linh hoạt, vì hoạt động với quy mô nhỏ nên hầu hết các DNN&V đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường.

Trong khi đó những sự biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội, hay các dao động đột biến trên thị trường thường tác động mạnh mẽ lên các doanh nghiệp lớn nhiều hơn đối với các DNN&V. Trên giác độ thương mại thì nhờ tính năng động này mà các DNN&V dễ dàng tìm kiếm thị trường nghách và gia nhập thị trường này khi thấy việc kinh doanh trên thị trường chính trở nên khó khăn và kém hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt quan trọng với các nền kinh tế đang phát triển hoặc chuyển đổi như nước ta.

- Lợi thế so sánh trong cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn, DNN&V có lợi thế trong cạnh tranh đó là khả năng kết hợp và phát huy các nguồn lực đầu vào như lao động hay tài nguyên hoặc vốn tại chỗ khi khai thác và phát huy các nghành nghề truyền thống của từng địa phương. Rất nhiều DNN&V của Việt Nam và thế giới đã từng bước trưởng thành và lớn mạnh khi khai thác những nguồn lực sẵn có của địa phương. Việc các DNN&V xuất khẩu nông thủy sản tận dụng nguồn nguyên liệu riêng và nguồn nhân lực sẵn có ở địa phương sẽ giảm chi phí sản xuất cho chính các DNN&V này do không phải trả chi phí vận chuyển và chi phí lao động thấp. Điều này tạo ra sự cạnh tranh trong giá hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng do họ thường tập trung chính vào một mặt hàng nhất định để cung cấp cho thị trường, qua đó sang tạo ra nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của người tiêu dùng.

- Tạo ra các tác động ngoại lai. Trên giác độ kinh tế thì DNN&V tạo ra các tác động ngoại lai rất mạnh cả về mặt tích cực và tiêu cực. Với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương đặc biệt các ngành sử dụng nhiều lao động, DNN&V góp phần tạo ra công ăn việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho dân cư địa phương hoặc duy trì và bảo vệ các nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, việc phát triển

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

các DNN&V còn có các lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn qua đó góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội và giúp Chính phủ giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội khác [17].

Như vậy, qua phần phân tích trên có thể thấy tầm quan trọng của DNN&V với nền kinh tế của nước ta là rất lớn. Nếu như phát huy tốt những điểm mạnh nổi bật của DNN&V thì sẽ tạo ra những tác động tích cực cho sự phát triển chung của toàn nền kinh tế và sự ổn định xã hội.

Chiến lược dài hạn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam xuất khẩu hàng nông sản ra nước ngoài - 9

2.4.2. Điểm yếu


Bên cạnh những ưu điểm rất đặc trưng cho loại hình DNN&V được kể ra ở trên, các DNN&V còn có nhiều điểm yếu như:.

- Thiếu các nguồn lực để tiến hành các công trình hoặc các dự án đầu tư lớn. Nguồn lực quan trọng nhất mà các DNN&V thường thiếu là vốn. Do quy mô nhỏ nên hầu hết các DNN&V không có đủ vốn để nhận các hợp đồng có giá trị cao.

- Trình độ lao động và năng lực quản lý kinh doanh cũng là một yếu tố gây cản trở lớn tới sự phát triển lâu dài của các DNN&V. Họ thiếu thông tin về thị trường, trình độ quản lý doanh nghiệp yếu. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có chiến lược kinh doanh, chưa xây dựng chương trình hội nhập khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Theo số liệu khảo sát các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên 50% số giám đốc các công ty chưa tham gia các lớp đào tạo quản trị kinh doanh, nhiều người trong số họ chưa tốt nghiệp phổ thông, trình độ tiếng Anh, sử dụng công nghệ thông tin kém, khiến tỷ lệ doanh nghiệp bị đóng cửa khá cao, bình quân trên 10%/năm [12].

Bên cạnh đó, do không được đầu tư về vốn để cải tiến kỹ thuật, trình độ lao động hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp này thường lạc hậu về khoa học công nghệ. Các DNN&V xuất khẩu hàng nông thủy sản còn gặp khó khăn

nhiều hơn khi việc thiếu vốn khiến cho họ không thể ký kết các hợp đồng xuất khẩu có giá trị lớn từ nước ngoài trong khi hầu hết các đơn đặt hàng nông thủy sản có giá trị rất cao. Hơn nữa, do trình độ công nghệ sản xuất chế biến còn lạc hậu mà nhiều lô hàng nông thủy sản xuất khẩu của các DNN&V bị từ chối nhập khẩu hay bị ép giá do chất lượng không đảm bảo.

- Các DNN&V không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và ở nhiều quốc gia nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường yếu thế hơn trong các quan hệ với ngân hàng, với Chính phủ và giới báo chí cũng như thiếu sự ủng hộ của công chúng. Nhiều DNN&V bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong quá trình phát triển. ở Việt Nam, trong hai năm trở lại đây, vai trò của các DNN&V đã được Chính phủ và các tổ chức kinh tế đánh giá rất cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn khi không được hỗ trợ vay vốn từ ngân hàng, hay các hỗ trợ chính thức từ phía chính phủ để tạo điều kiện cho các DNN&V phát triển.

- Các DNN&V do dễ khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy càng nhiều DNN&V ra đời thì cũng có nhiều DNN&V bị phá sản. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm của nhiều nhà kinh tế thì DNN&V có tỷ lệ phá sản khá cao. Và các doanh nghiệp do nam giới quản lý thường có tỷ lệ thất bại cao hơn các doanh nghiệp được điều hành và quản lý bởi các doanh nhân nữ. Bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực thì DNN&V cũng gây ra không ít các ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực trong nền kinh tế như do ít vốn, hầu hết các doanh nghiệp này không quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường hoặc khi nhiều DNN&V bị phá sản do hoạt động không hiệu quả thì gây ra sự thiếu tin tưởng của dân chúng đối với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho người tiêu dùng khi lựa chọn các sản phẩm tiêu dùng cũng như các nhà cung cấp dịch vụ. Điều này đã làm giảm uy tín của loại hình DNN&V đối với công chúng và người lao động [12].

Nhìn chung, các DNN&V Việt Nam nói chung và các DNN&V xuất khẩu hàng nông thủy sản nói riêng còn yếu kém về nhiều mặt: Vốn, trình độ lao động, trình độ quản lý kinh doanh, tiến bộ công nghệ …Vì thế, Chính phủ cần có những chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp này cải thiện những điểm yếu cản trở sự phát triển của khu vực DNN&V.

2.4.3. Cơ hội

Theo một nghiên cứu mới đây do ngân hàng Thượng Hải Hồng Kông (HSBC) tiến hành [12], các DNN&V Việt Nam lạc quan nhất về tương lai. Khảo sát được tiến hành trên 2.700 DNN&V tại Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Ấn Độ, Việt Nam, Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia. Mặc dù lo ngại về sự suy thoái kinh tế Mỹ, các DNN&V Việt Nam vẫn đứng đầu về sự lạc quan với kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế và kế hoạch của họ để tăng chi tiêu vốn trong vòng 6 tháng đầu năm 2008. Hầu hết các doanh nghiệp cho rằng họ có kế hoạch để thuê thêm nhân công và tăng xuất khẩu, chủ yếu tới các nước Châu Á khác. Đó là do các DNN&V Việt Nam lạc quan về những cơ hội mà họ có thể tận dụng được.

Các cơ hội cho DNN&V Việt Nam phát triển chủ yếu là những cơ hội đến từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các tác động tiêu cực gây ra mối đe dọa cho các phương thức kinh doanh lâu năm và truyền thống nhưng lại được bù đắp nhiều hơn bằng các cơ hội và tác động tích cực mà việc gia nhập WTO đem lại cho các doanh nghiệp. Gia nhập WTO được mong muốn sẽ cùng có lợi cho tất cả các bên, những lợi ích và cơ hội này cũng được mong đợi cho các DNN&V, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu nông thủy sản như sau:

- Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi hơn để phát triển. Thật vậy, Việt Nam phải hoàn thiện khung khổ pháp lý phù hợp với cam kết hội nhập và các chuẩn mực kinh tế thị trường khi gia nhập WTO. Việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi tính chuyên nghiệp, minh bạch và khả năng giải trình của bộ máy nhà nước cùng với các nỗ lực cải cách hành

chính, cải cách doanh nghiệp trong nước, minh bạch hóa toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại, hoàn thiện các thị trường yếu tố sản xuất (thị trường tài chính, thị trường đất đai, và thị trường lao động…). Những yêu cầu này chính là động lực cải cách nội tại nền kinh tế, hướng tới môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi với hệ thống pháp lý minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, chính trị xã hội ổn định, những yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế và đặc biệt có ý nghĩa với các DNN&V còn non yếu ở nhiều khía cạnh.

Việc đơn giản hóa 3 thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế và các giấy phép khắc giấu có tác động tích cực đối với các doanh nghiệp mới. Nhiều doanh nghiệp tán thành việc xóa bỏ hoàn toàn việc cấp giấy phép khắc giấu.Việc tiến tới cơ chế một cửa cho đăng ký kinh doanh và giảm thời gian để xử lý 3 thủ tục này từ 30 ngày xuống 15 ngày đối với việc thành lập doanh nghiệp mới và xuống 12 ngày đối với việc thành lập một chi nhánh thực sự rất có ý nghĩa. Số lần phải đến cơ quan hành chính để tiến hành các thủ tục này và thời gian cấp mã số thuế đã giảm đi một nửa. Thủ tục kê khai và nộp thuế cũng đã được hoàn thiện và đơn giản hơn cho người nộp thuế. Việc đơn giản hóa các thủ tục chính thức thành lập một doanh nghiệp giúp đưa ra một cơ sở kinh doanh nhỏ phi chính thức vào khu vực chính thức, khuyến khích việc hoạt động kinh doanh theo pháp luật. Cơ chế "một cửa" ở các ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất; hoàn thiện cơ chế đăng ký kinh doanh; hoàn thiện thủ tục hải quan, thủ tục nộp thuế... đã giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm chi phí thời gian và tiền bạc, nhờ đó mà tăng năng lực cạnh tranh.

- Thay đổi tích cực khác sẽ trợ giúp cho việc thành lập và quản trị các DNN&V theo khuôn khổ pháp luật (Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005). Các thủ tục xuất nhập khẩu được đơn giản hóa. Có thêm nhiều cơ hội cho việc tiếp cận thị trường, học hỏi, hợp tác quốc tế, tiếp cận công nghệ, bảo

vệ quyền sở hữu trí tuệ tốt hơn, chất lượng và uy tín của các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam được cải thiện.

- Việc mở cửa dịch vụ bưu chính viễn thông sẽ có tác động rất tích cực đến các DNN&V Việt Nam, cho phép các doanh nghiệp từ nhỏ cạnh tranh trên toàn cầu nhờ internet và thương mại trực tuyến. Việc tiếp cận internet băng thông rộng đang được thử nghiệm ở nông thôn và vùng xa ở Việt Nam, những nơi bắt đầu có điện thoại cố định từ năm 2004 và mới được kết nối với mạng lưới điện khu vực từ năm 2005 [12].

- Mạng liên kết và các hiệp hội rất quan trọng đối với sự phát triển và tăng trưởng của các DNN&V, đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, tiếp cận thông tin và thông tin và thị trường, đồng thời là tiếng nói của các DNN&V tới các cơ quan chức năng. Sự trợ giúp của các hội nghề nghiệp và mối liên hệ với các phòng thương mại nước ngoài ngày càng tăng đang giúp tạo ra một hệ thống trợ giúp cho các DNN&V.

Các hiệp hội kinh doanh cũng đưa ra các khóa đào tạo, các thông tin cũng như mối liên hệ với thị trường xuất khẩu. Khi yêu cầu về chất lượng, sự ổn định và phân phối có tính phụ thuộc tăng, tiêu chuẩn tổng thể cho sản phẩm và dịch vụ được cải thiện và cuối cùng, các DNN&V còn tồn tại sẽ có xu hướng mạnh hơn, thành công và chuyên nghiệp hơn. Có những DNN&V tăng trưởng nhanh, tạo ra thêm nhiều cơ hội nghề nghiệp và cơ hội cho các DNN&V khác.

- Việc Việt Nam giảm thuế và các nghĩa vụ nhập khẩu đối với các sản phẩm như máy móc, thiết bị, ô tô sẽ tạo điều kiện giúp DNN&V hướng tới nâng cao hiệu quả nhờ được cung cấp nguồn lực tốt hơn. Nhượng quyền thương hiệu cũng giúp các doanh nghiệp nhỏ tăng cường nhờ việc giới thiệu và đào tạo kỹ năng quản lý, marketing, kỹ năng kế toán, tạo việc làm và tiêu chuẩn dịch vụ.

- Cùng với tiến trình hội nhập, thuế nhập khẩu và các rào cản phi thuế quan giảm. Việt Nam được hưởng MFN tại 164 nước trên thế giới nên nhiều ngành hàng, mặt hàng được miễn giảm thuế, xóa bỏ hạn ngạch. Đây chính là nguyên nhân cơ bản tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; sự cạnh tranh trên thị trường tăng, tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ chi phí để nâng cao sức cạnh tranh.

- Trở thành thành viên chính thức của WTO, các DNN&V của Việt Nam có lợi hơn trong các tranh chấp thương mại do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Gia nhập WTO cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam không bị đối xử như các doanh nghiệp đến từ một nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ tranh chấp thương mại như trước đây.

- Việc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ góp phần kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế dịch vụ, theo đó đem lại những lợi ích lan tỏa cho nền kinh tế mà các doanh nghiệp hoạt động trong đó cũng được hưởng lợi như: tạo động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp, tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển. Năm 2007, năm đầu tiên sau khi gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh.

- Mở cửa thương mại gắn liền với tiến trình toàn cầu hóa bởi nó tạo ra sự gắn kết giữa nền kinh tế trong nước với thị trường toàn cầu cả ở phía đầu vào lẫn đầu ra. Cùng với sự phát triển của cách mạng thông tin và công nghệ cao, giảm bớt các rào cản thương mại và sự ra tăng lưu chuyển vốn trên toàn cầu, các DNN&V sẽ có những cơ hội mà trước đây họ không thể có, đặc biệt

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí