Luật Chứng Khoán, các văn bản dưới luật có liên quan cũng như các quy định của Sở Giao Dịch Chứng Khoán. Thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn đầu nên không tránh khỏi các thay đổi và điều chỉnh của hệ thống luật pháp.
Do đó, Công ty cũng phải có những điều chỉnh thích hợp và kịp thời để thích nghi với môi trường pháp luật và kinh tế sao cho có thể tận dụng và phát huy được các lợi thế của Công ty.
Rủi ro về quản lý
HAVICO có mức tăng trưởng doanh thu rất ấn tượng qua các năm gần đây. Thị trường quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho công ty phát triển về mọi mặt cũng như yêu cầu phải nâng công suất và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh với quy mô lớn hơn. Điều này có thể gây ra một số bất cập về mặt quản lý và nhân sự. Tuy nhiên, có thể thấy rằng HAVICO hiện có một đội ngũ lãnh đạo năng động, nhiều kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu thủy sản.
Rủi ro về thị trường xuất khẩu
Sản phẩm thủy sản đông lạnh của HAVICO được tiêu thụ trên nhiều thị trường khó tính như Châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore và ASEAN. Các thị trường này đòi hỏi khác nhau về số lượng, kích cỡ, màu sắc, loại sản phẩm. Ngoài ra, sản phẩm thủy sản chế biến đông lạnh chịu tác động khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng. Hiện nay, toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm của HAVICO được thực hiện theo những hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu của những thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu có sự thay đổi về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường tiêu thụ, thì sẽ dẫn đến sự xáo trộn trong sản xuất và tăng thêm chi phí sản xuất.
Rủi ro trong hoạt động xuất khẩu
Sản phẩm của HAVICO sản xuất chủ yếu cho xuất khẩu. Bất kỳ một trở ngại nào đến hoạt động xuất nhập khẩu đều ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. HAVICO đã có các biện pháp phòng ngừa rủi ro đối với sản phẩm của mình trong quá trình vận chuyển tới người tiêu dùng. Tuy nhiên, một số rủi ro có thể xảy ra như vận chuyển chậm làm hư hỏng sản phẩm, quy cách chưa
đáp ứng yêu cầu, loại sản phẩm chưa phù hợp, sản phẩm có thể bị trả lại hoặc buộc phải bán giảm giá.
Rủi ro về thị trường nguyên liệu đầu vào
Một trong những yếu tố cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh là nguồn nguyên liệu đầu vào. Như vậy, một sự rủi ro nào liên quan đến nguồn nguyên liệu sẽ trực tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất. Hiện nay, nguồn nguyên liệu nuôi trồng trong nước có phần cạn kiệt do mức độ khai thác cũng như tính cạnh tranh thu mua của các nhà sản xuất và xuất khẩu thủy sản trong nước. Chính vì thế, nguy cơ khan hiếm nguồn nguyên liệu từ trong nước và việc chi phí nguyên liệu có thể tăng lên là có thể và điều này sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch lợi nhuận.
Rủi ro khác
Các rủi ro khác đề cập ở đây là những rủi ro bất thường, không lường tính trước được và rất ít khả năng xảy ra, tuy nhiên nếu có xảy ra thì ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty như động đất, bão lũ, chiến tranh, khủng bố, hay một đợt dịch bệnh.
2.3 Thực trạng hiệu quả xuất khẩu thủy sản của HAVICO năm 2008-2010
2.3.1 Về kinh tế
Bảng 2.2 Tóm tắt một số chỉ tiêu kinh tế của HAVICO năm 2008-2010
(Đơn vị tính: Đồng)
CHỈ TIÊU | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | |
1 | Tài sản ngắn hạn | 218.399.991.781 | 274.656.541.610 | 335.959.447.673 |
2 | Nợ ngắn hạn | 173.965.921.958 | 232.784.124.546 | 266.737.830.181 |
3 | Hàng tồn kho | 142.049.974.879 | 132.232.289.897 | 168.607.411.434 |
4 | Vốn bằng tiền | 9.590.043.244 | 85.595.446.264 | 88.643.043.445 |
5 | Lợi nhuận sau thuế | 10.347.083.842 | 23.140.120.632 | 17.560.264.095 |
6 | Tổng tài sản | 315.316.964.078 | 348.946.608.539 | 383.585.706.257 |
7 | Vốn chủ sở hữu | 99.340.778.124 | 108.533.487.316 | 111.937.296.834 |
8 | Doanh thu thuần | 704.037.114.590 | 793.933.202.199 | 814.256.373.894 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Bước Tổ Chức Thực Hiện Hợp Đồng Xuất Khẩu
- Thực Trạng Về Hiệu Quả Kinh Doanh Xuất Khẩu Thủy Sản Của Công Ty Cổ Phần Hải Việt
- Sơ Lược Về Tình Hình Hoạt Động Xuất Khẩu Thủy Sản Của Ctcp Hải Việt
- Chỉ Tiêu Doanh Lợi Doanh Thu Của Havico
- Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu thủy sản của công ty cổ phần Hải Việt - 10
- Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu thủy sản của công ty cổ phần Hải Việt - 11
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
Nguồn: Phòng kế toán HAVICO (báo cáo tài chính năm 2008-2010)
2.3.1.1 Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
2.3.1.1.1 Khả năng thanh toán hiện thời
Bảng 2.3 Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện thời của HAVICO
Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | |
HAVICO | 1,255 | 1,180 | 1,26 |
Qua bảng số liệu ta thấy chỉ tiêu thanh toán của công ty là trung bình cứ mỗi đồng nợ ngắn hạn của công ty thì có đến 1,18-1,26 đồng tài sản lưu động sẵn sàng chi trả. Như vậy, khả năng thanh toán nợ của công ty là tốt, công ty có đủ tài sản lưu động để bảo đảm chi trả các khoản nợ vay ngắn hạn đó là các khoản nợ như lương nhân viên, các khoản phải trả cho người cung cấp, các khoản nợ dài hạn tới kỳ phải trả, thuế phải nộp, vay ngắn hạn từ ngân hàng.. có thời gian đáo hạn dưới 1 năm.
Cụ thể là năm 2009 chỉ số thanh toán này giảm -0,075 tương ứng với tỷ lệ giảm là -6% so với năm 2008. Qua năm 2010 chỉ số này có phần tăng lên nhưng không đáng kể chỉ với mức tăng là 0,08 tương ứng với tỷ lệ tăng là 6,7% so với năm 2009. Nhìn chung khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Và so với một số công ty khác cùng hoạt động trong cùng lĩnh vực ngành nghề thì chỉ số thanh toán này của HAVICO tương đối ở mức cao.
Qua đó mục tiêu của doanh nghiệp lúc này luôn duy trì chỉ số này vào mức 1- 2 là doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, chỉ số này quá cao cũng không tốt lúc đó cho thấy tài sản của doanh nghiệp bị cột chặt vào “ tài sản lưu động” quá nhiều và như vậy thì hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là không cao. Ngược lại nếu chỉ số này nhỏ hơn 1 có thể dẫn đến kết luận là doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính, thiếu hụt trong thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, doanh nghiệp có thể không còn khả năng thanh toán đúng hạn các khoản phải trả hoặc cần mở rộng hạn mức tín dụng tại ngân hàng.
2.3.1.1.2 Khả năng thanh toán nhanh
Bảng 2.4 Chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh của HAVICO
Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | |
HAVICO | 0,439 | 0,612 | 0,627 |
Sau khi loại bỏ giá trị hàng tồn kho vì thực tế hàng tồn kho kém thanh khoản hơn, ta phải mất thời gian, chi phí tiêu thụ mới có thể chuyển thành tiền được. Qua đó ta nhận thấy khả năng thanh toán công nợ của công ty là thấp ở mức từ 0,44 đến 0,62 doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là cứ trung bình mỗi đồng nợ ngắn hạn của công ty thì có từ 0,44 đến 0,62 đồng tài sản để chi trả.
Hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn hệ số thanh toán hiện thời rất nhiều cho thấy, tài sản ngắn hạn phụ thuộc rất lớn vào hàng tồn kho. Cụ thể là tỷ trọng của hàng tồn kho năm 2008 chiếm đến 65% so với tài sản ngắn hạn. Điều này cho thấy trong năm 2008 doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhiều của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm cho hàng hóa trong còn tồn, ứ đọng nhiều trong kho, giảm tính thanh khoản cho các khoản nợ ngắn hạn.
Qua năm 2009 chỉ số này tăng 0,173 tương ứng tỷ lệ tăng 40%. Như thế, doanh nghiệp đã có những biện pháp khắc phục tình trạng ứ đọng hàng tồn kho nhưng vẫn còn ở mức thấp, cụ thể: trị giá hàng tồn kho doanh nghiệp có giảm 10 tỷ đồng thông qua việc tăng bán hàng, nhưng tỷ trọng hàng tồn kho vẫn còn ở mức cao chiếm 48% so với tài sản lưu động. Mặt khác, doanh nghiệp cũng đã vay thêm từ các ngân hàng cụ thể như tại ngân hàng TMCP Quốc Tế VN ở năm 2008 doanh nghiệp mới chỉ vay ở mức 43,95 tỷ thì qua năm 2009 mức vay lên tới 81,5 tỷ, tại Ngân Hàng Công Thương Việt Nam năm 2008 mức 16,6 tỷ thì qua năm 2009 tăng lên 30 tỷ, Ngân Hàng Phát Triển Bà Rịa - Vũng Tàu năm 2009 cũng đã tăng lên 27 tỷ so với năm 2008 và một số ngân hàng khác, với tổng mức tăng từ việc vay của các ngân hàng là 54,46 tỷ (Theo báo cáo kiểm toán HAVICO). Qua năm 2010 thì chỉ số này có tăng nhưng không đáng kể chỉ đạt mức 0,627 tăng 0,014. Điều này cho thấy doanh nghiệp cũng đã có một số biện pháp nhằm tăng khả năng thanh toán của công ty nhằm tránh tình trạng lâm vào cảnh thiếu hụt trong thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Tuy nhiên tính thanh khoản của tài sản ngắn hạn là tương đối thấp. Tất nhiên, với tỷ lệ nhỏ hơn 1 doanh nghiệp không đạt được tình hình tài chính tốt nhưng điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp sẽ bị phá sản vì có nhiều cách để huy động thêm vốn cho việc trả nợ.
Vì vậy, mà doanh nghiệp trong thời gian tới cũng phải khắc phuc tình trạng thiếu hụt khả năng thanh toán ít nhất thì chỉ số này đạt từ 1-2 là mức chấp nhận được. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao thì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay vốn lưu động thấp, hiệu quả sử dụng vốn cũng không cao. Như vậy, cũng không tốt cho doanh nghiệp.
2.3.1.1.3 Khả năng thanh toán bằng tiền
Bảng 2.5 Chỉ tiêu khả năng thanh toán bằng tiền của HAVICO
Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | |
HAVICO | 0,055 | 0,368 | 0,332 |
Qua số liệu thống kê ta thấy khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp cũng ở mức thấp trung bình mỗi đồng nợ ngắn hạn của công ty thì chỉ có từ 0,05 đến 0,36 đồng bằng tiền của công ty sẵn sàng chi trả. Như vậy, cho thấy doanh nghiệp có một lưu lượng tiền mặt nhỏ trong lưu thông hàng chưa thực sự đáp ứng được các khoản cần phải trả ngắn hạn như: tiền lương công nhân viên, phải trả người bán, các khoản tiền vay tới hạn phải trả, thuế phải nộp…
Hệ số thanh toán bằng tiền nhỏ hơn hệ số thanh toán hiện thời rất nhiều cho thấy, tài sản ngắn hạn phụ thuộc rất lớn vào hàng tồn kho. Hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp.
Năm 2008 chỉ số khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp rất nhỏ chỉ đạt mức 0,05. Điều này cho thấy cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng thiếu hụt tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là trong năm doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, chuyên để nghiên cứu sản phẩm về mặt dư lượng chất kháng sinh, chất bảo quản thực phẩm tại Long Xuyên, Tp.Vũng Tàu. Sau quá trình xây dựng thì vào năm 2009 phòng thử nghiệm này được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025: 2005. Kho lạnh
được xây dựng trên diện tích 7.000m2 tại đường số 17 khu công nghiệp Phú Mỹ 1, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Hệ thống kho lạnh với công suất 8000 tấn được khởi công xây dựng từ tháng 4 và hoàn thành vào tháng 10 năm 2008, được đi vào hoạt động chính thức từ tháng 11 năm 2008. Với tổng vốn đầu tư 50 tỷ đồng, toàn bộ cụm kho lạnh được thiết kế và lắp đặt hệ thống hiện đại của Châu Âu với nhiệt độ được điều chỉnh tự động âm 25oC. Hệ thống bốc dỡ hàng hoàn toàn bằng
thiết bị xe nâng và chương trình quản lý kho bằng phần mềm chuyên dụng. Hệ thống kho lạnh này chuyên làm dịch vụ phục vụ chứa và bảo quản hàng thực phẩm đông lạnh, rau quả xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Trong đó tỷ lệ góp vốn của Công ty: 39,37 % tương ứng với số tiền là 19,6 tỷ. Chính vì thế mà lượng tiền trong lưu thông của công ty rất thấp. Và nguyên nhân cũng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên doanh nghiệp bị ứ đọng hàng trong kho nhiều chiếm 68% so với tài sản ngắn hạn, trong khi vốn bằng tiền chỉ chiếm 4,4% so với tài sản ngắn hạn.
Bên cạnh việc phục hồi kinh tế sau năm khủng hoảng cụ thể là doanh thu trong năm 2009 đạt 793,9 tỷ tăng 12,7%, doanh nghiệp cũng đã phải vay ngắn hạn từ các ngân hàng như: Ngân Hàng TMCP Quốc Tế CN Vũng Tàu, Ngân Hàng TMCP Công Thương.. bằng tiền nội tệ cũng như ngoại tệ cụ thể là đồng việt nam tăng 5,71 tỷ, đô la Mỹ tăng 74,2 tỷ, đồng yên Nhật 60 tỷ (Trị giá các ngoại tệ đã được tính theo VNĐ). Do đó, chỉ số khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng đạt mức 0,36 .Như vậy, doanh nghiệp cũng đã có những chính sách làm tăng vốn bằng tiền để sẵn sàng chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn bằng việc vay ngắn hạn từ các ngân hàng.
Qua năm 2010 doanh nghiệp cũng đã duy trì được chỉ số này là 0,33 tuy chỉ số này không cao nhưng cũng phần nào đáp ứng được nghĩa vụ chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Và nếu so với các doanh nghiệp khác kinh doanh cùng ngành nghề thì chỉ số này cũng chỉ đạt mức 0,2-0,3. Như vậy, cho thấy HAVICO hoạt động hiệu quả như các doanh nghiệp khác cùng ngành nghề. Tuy nhiên, chỉ số này chưa thực sự lý tưởng ít nhất phải đạt mức 1, thì doanh nghiệp mới đủ chi trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền.
Và thực tế có rất ít doanh nghiệp có số tiền mặt và các khoản tương đương tiền đủ để đáp ứng toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn, do đó chỉ số thanh toán tiền mặt rất ít khi lớn hơn hay bằng 1. Điều này cũng không quá nghiêm trọng. Một doanh nghiệp giữ tiền mặt và các khoản tương đương tiền ở mức cao để bảo đảm chi trả các khoản nợ ngắn hạn là một việc làm không thực sự hiệu quả, điều này cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không biết sử dụng loại tài sản có tính thanh khoản cao này một cách hiệu quả. Doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng số tiền và các khoản tương đương tiền này để tạo thêm thu nhập cho doanh nghiệp như cho vay ngắn hạn, gửi ngân hàng để sinh lời.
2.3.1.2.1 Doanh lợi tổng tài sản (ROA)
Bảng 2.6 Chỉ tiêu doanh lợi tài sản của HAVICO
Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | |
HAVICO | 3,281 | 6,631 | 4,578 |
Chỉ tiêu này cho ta thấy đựơc hiệu suất sử dụng tại tài sản của doanh nghiệp. Cụ thể trung bình 100 đồng tài sản thì doanh nghiệp tạo ra 3,28 đồng lợi nhuận sau thuế năm 2008; 6,63 đồng năm 2009 và 4,578 đồng vào năm 2010. Như thế, năm 2009 tăng 3,35 tương ứng với tỷ lệ tăng 102% so với năm 2008 và qua năm 2010 lại giảm mức 2,053 tương ứng với mức tăng là 31% so với năm 2009.
Qua đó ta có thể thấy vào năm 2008 hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp có thấp hơn hiệu suất sử dụng tài sản năm 2009. Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy là do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Thực tế, trong năm 2008 lợi nhuận sau thuế trong năm doanh nghiệp chỉ đạt 10,3 tỷ trong khi đó vào năm 2009 lợi nhuận sau thuế đạt 23,1 tỷ tăng 124%. Và doanh thu thuần cũng tăng mức 12,7%. Năm 2009 chính là năm doanh nghiệp gặt hái được thành công một phần do sự phục hồi kinh tế của một số quốc gia và cũng do trong năm 2009 doanh nghiệp đã hoàn tất công việc xây dựng phòng thử nghiệm và được cấp chứng chỉ Chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025: 2005, nên phần nào cũng làm tăng doanh số bán sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vào năm 2010 hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp có giảm hơn so với năm 2009 nhưng vẫn đạt mức 4,57. Mặc dù, doanh thu thuần năm
2010 tăng 2,56% so với năm 2009 nhưng lợi nhuận sau thuế giảm 24,11% nguyên nhân do các khoản chi phí đầu vào tăng, trong đó chi phí nguyên liệu tăng 3,67% và chi phí nhiên liệu tăng 39,68%, chi phí điện nước và một số chi phí khác tăng 13,68% (Theo báo cáo tài chính HAVICO). Nhìn chung, hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp tương đối tốt. So với một số công ty khác kinh doanh cùng ngành nghề thì hiệu suất sử dụng tài sản cũng vào mức 4 qua các năm. Như vậy, thì doanh nghiệp cũng đạt mức tương đương so với các công ty khác trong cùng ngành. Điều này cho thấy doanh nghiệp đã có những biện pháp quản lý tài sản tốt. Điều này, cũng cho thấy hiệu quả sử dụng sử dụng các tài sản ngắn hạn như tiền thuê từ ngân hàng đã thực sự mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp.
Tuy thế, không chỉ dừng lại ở đó mà doanh nghiệp tiếp tục phấn đấu nâng cao năng lực quản lý để có thể hoạt động tài sản tốt hơn duy trì ở mức cao nhất có thể. Có như thế thì doanh nghiệp mới thực sự hoạt động có hiệu quả.
2.3.1.2.2 Doanh lợi vốn Chủ sở hữu (ROE)
Bảng 2.7 Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu của HAVICO
Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | |
HAVICO | 10,416 | 21,321 | 15,688 |
Qua bảng số liệu trên, ta thấy năm 2008 cứ trung bình 100 đồng vốn chủ sở hữu thì doanh nghiệp thu được 10,4 đồng lợi nhuận sau thuế, năm 2009 là 21,3 đồng và vào năm 2010 là 15,68 đồng. Tương đương với mức tăng là năm 2009 tăng 105% so với năm 2008, và năm 2010 giảm 26% so với năm 2009.
Doanh nghiệp đang có một nguồn vốn lớn chiếm khoảng hơn 40% qua các năm sở dĩ có được nguồn vốn mạnh như vậy. Chính là do trong năm 2008 HAVICO được chính thức được giao dịch trên sàn chứng khoán Upcom. Vì thế, nếu tính năm 2000 nguồn vốn chỉ 13,6 tỷ, trong đợt tăng vốn đợt 1 vào ngày 10/3/2006 HAVICO đã phát hành 124.000 cổ phiếu mệnh giá 100.000 làm cho vốn điều lệ của công ty lên 26 tỷ, và tháng 6/2007 HAVICO đã phát hành thêm 366.372 cổ phiếu làm cho vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp lên 62,63 tỷ đồng. Không chỉ thế mà sau khi phát hành cổ phiểu thì trung bình hàng năm thặng dư vốn cổ phần của doanh nghiệp
cũng đạt mức 28,4 tỷ.
.....