Minh đăng tải trên Tạp chí khoa học thương mại, năm 2015. Nghiên cứu đã chỉ ra những cơ hội và thách thức, cũng như cách thức để phát triển hoạt động thương mại giữa hai nước, tuy nhiên chưa đi sâu vào cụ thể xuất khẩu hàng hoá.
Tác giả Nikolai V.Fedorov (2018) với công trình:” New policy towards VietNam? State administration of the Russian Federation and a realization of the free trade agreement between the EAEU and VietNam.” Công trình nghiên cứu về những tác động mà EUEA mang lại đồng thời chỉ ra những đặc điểm quan trọng giúp cho FTA được thực thi hiệu quả. Việc tăng cường trao đổi thông tin cũng như thúc đẩy nguyên tắc của FTA được tác giả coi là một khía cạnh quan trọng của mối quan hệ hợp tác. Cách thức hiệu quả nhất để phát triển các cơ hội của FTA là sự hợp tác của các cơ quan quản lý nhà nước và các đại diện doanh nghiệp và theo tác giả để đánh giá hiệu quả của FTA là dựa vào chỉ số kim ngạch thương mại giữa EAEU và Việt Nam.Tác giả chỉ ra từ 2017, Việt Nam đã tăng xuất khẩu hàng điện tử, quần áo, giày dép và ống dẫn nông nghiệp,.. và có thể thấy rằng FTA có tác động quan trọng tới kim ngạch thương mại giữa hai nước đồng thời tăng cường tình hữu nghị cũng như sự hợp tác của hai quốc gia.
Tác giả Nguyễn Khánh Toàn (2022) với nghiên cứu “Вьетнамский эксперт назвал результаты торгового соглашения ЕАЭС с Вьетнамом” đã chỉ ra những điểm tích cực trong 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đều tăng cao do có sự ưu đãi về thuế quan đối với nhiều mặt hàng”. Hiệp định thương mại với EAEU mở ra cơ hội tăng xuất khẩu của Việt Nam và khu thương mại tự do giữa Việt Nam và EAEU mang lại những lợi thế tự nhiên như với một số mặt hàng: dệt may, thuỷ sản, nông sản,…Tuy nhiên tác giả cũng chỉ ra nhiều điểm hạn chế dù quan hệ giữa Việt Nam và các nước EAEU có truyền thống hữu nghị và hợp tác lâu đời và dù đã có sự tăng trưởng tuy nhiên thương mại giữa Việt Nam với toàn bộ liên minh chỉ bằng khoảng 1/10 thương mại với Mỹ hoặc Trung Quốc. Do đó để tăng cường hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu, tác giả đã chỉ ra một số giải pháp như tăng cường ký kết hợp đồng hợp tác như về năng lượng, phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, tăng cường giao lưu giữa các doanh nghiệp và thu hút đầu tư hai bên. Bài báo đã phần nào đề cập về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Liên
Bang Nga dưới tác động của hiệp định thương mại tự do tuy nhiên chưa đi vào phân tích cụ thể về xuất khẩu hàng hoá.
Nhìn chung, những nghiên cứu trong và ngoài nước về cơ bản đã làm rõ được những nội dung khái quát về hội nhập nói chung và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu nói riêng. Xu thế hội nhập đã, đang và sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với toàn thể các quốc gia. Với hơn 1.380 dòng thuế được giảm hoặc miễn trong thời gian áp dụng, FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu được ký kết năm 2015 và có hiệu lực năm 2016 đã tạo ra nhiều thay đổi đối với quan hệ thương mại Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu, đặc biệt là xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dệt may, nông sản.
2.3. Tình hình nghiên cứu về xuất khẩu hàng hóa sang Liên bang Nga
Liên bang Nga là thị trường nhập khẩu khá lớn trên thế giới, do đó, có nhiều nghiên cứu trên thế giới về xuất nhập khẩu của thị trường Liên bang Nga. Có thể kể đến một số nghiên cứu sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 1
- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 2
- Cơ Sở Lý Luận Của Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Hàng Hoá Của Một Quốc Gia Sang Thị Trường Đã Ký Kết Hiệp Định Thương Mại Tự Do
- Một Số Vấn Đề Lý Luận Về Hoạt Động Xuất Khẩu Hàng Hóa Của Một Quốc Gia Trong Bối Cảnh Thực Thi Hiệp Định Thương Mại Tự Do
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Hoạt Động Xuất Khẩu Hàng Hóa Trong Bối Cảnh Thực Thi Fta
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
Bài báo “The economic impact of the Russian import ban: A CGE analysis” (Tác động kinh tế của lệnh cấm nhập khẩu của Nga: Một phân tích CGE) của Zornitsa (2015) đã đánh giá tác động kinh tế của lệnh cấm vận của Nga từ ngày 7 tháng 8 năm 2014 đối với một số sản phẩm thực phẩm nông nghiệp từ EU, Hoa Kỳ, Na Uy, Canada và Úc. Tác động của lệnh trừng phạt kinh tế này được phân tích trong khuôn khổ mô hình cân bằng chung có thể tính toán được (CGE) với trọng tâm đặc biệt là song phương và tổng xuất khẩu, sản xuất và phúc lợi. Chi tiết, dựa trên dữ liệu thương mại thực tế, hiệu chuẩn của mô hình cho phép xác định chính xác cổ phiếu ngành và thuế quan cấm được tổng hợp để phù hợp với cấp độ tổng hợp của mô hình CGE. Ngoài ra, bài báo còn thực hiện một bài tập xác thực để so sánh các dự đoán mô hình với các phát triển dữ liệu thương mại thực sự.
Bài báo “Russian agriculture import ban: Quantifying losses of German agri- food exporters” (Lệnh cấm nhập khẩu nông nghiệp Nga: định lượng thiệt hại xuất khẩu nông sản của Đức) của Svetlana (2016) đánh giá những thiệt hại mà các nhà xuất khẩu thực phẩm Đức gặp phải do lệnh cấm nhập khẩu của Nga được đưa ra vào tháng 8 năm 2014 và đã được gia hạn thêm ít nhất một năm nữa. Nhìn vào xuất khẩu
theo quan điểm chuỗi thời gian cho thấy, tổn thất của các nhà xuất khẩu do bị tẩy chay không quá nghiêm trọng nếu hai giai đoạn trước của việc giảm xuất khẩu khá quyết liệt được tính đến: đầu tiên, do hạn chế nhập khẩu thịt và sữa của Liên bang Nga sản phẩm trong năm 2013 và thứ hai, do sự không chắc chắn gia tăng trong quan hệ thương mại Châu Âu – Liên bang Nga khi cuộc xung đột Ukraine leo thang và các bên đã trao đổi các lệnh trừng phạt đầu tiên.
Báo cáo “Russian Federation: Food and agricultural import regulations and standards report” (Liên bang Nga: Báo cáo về những tiêu chuẩn và luật lệ cho nhập khẩu thực phẩm và nông sản) của Deanna (2018) đã Báo cáo này là đưa ra tổng quan về các yêu cầu pháp lý và kỹ thuật chung do Liên bang Nga áp dụng cho nhập khẩu thực phẩm và nông sản. Các phần sau của nghiên cứu này đã được cập nhật đáng kể từ báo cáo FAIRS 2017: Phần I: Luật Thực phẩm chung, Phần V: Yêu cầu ghi nhãn, Phần VI: Tiêu chuẩn cụ thể khác, Phần VII: Yêu cầu đăng ký cơ sở và sản phẩm, Phần VIII: Chứng nhận khác và Yêu cầu kiểm tra, và Phần IX: Thủ tục nhập khẩu.
Nhìn chung, các nghiên cứu đã phân tích đặc điểm của thị trường Liên bang Nga cũng như những quy định về nhập khẩu hàng hóa vào thị trường Liên bang Nga. Mặc dù không có những yêu cầu quá cao như nhập khẩu hàng hóa vào Liên minh Châu Âu, nhưng những quy định về nhập khẩu hàng hóa của Nga ngày một thắt chặt, đặc biệt với nhóm hàng thực phẩm và nông sản. Những nghiên cứu này là cơ sở quan trọng cho những nghiên cứu về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga và cũng là tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp có định hướng xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Liên bang Nga.
Liên bang Nga cũng là thị trường xuất khẩu lâu đời của Việt Nam, chính vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu về xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga. Có thể kể đến một số nghiên cứu sau:
Báo cáo “Hồ sơ thị trường Liên bang Nga” của Ban Quan hệ Quốc tế - VCCI (2017) đã khái quát những thông tin cơ bản về thị trường Liên bang Nga như lịch sử, văn hóa, dân cư và tình hình phát triển kinh tế của Liên bang Nga. Nghiên cứu cũng đã phân tích quan hệ chính trị - kinh tế giữa Việt Nam và Liên bang Nga, đặc biệt là các Hiệp định thương mại đã được ký kết giữa hai bên. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng
đề xuất một số kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong thời gian tới, đặc biệt trong bối cảnh thực thi FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu.
Bài báo “Giải pháp xúc tiến thương mại sản phẩm thủy sản Việt Nam vào thị trường Liên bang Nga” của Nguyễn Văn Ngọc và Phạm Hồng Mạnh (2016) được đăng trên Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Bài báo đã phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong giai đoạn 2010 – 2015. Tiếp đó, bài viết dự báo những ảnh hưởng của FTA Việt Nam
– Liên minh kinh tế Á-Âu đến xuất khẩu thuỷ sản và đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi FTA này.
Bài báo “Thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Liên bnag Nga” của tác giả Doãn Thị Mai Hương (2017) đăng trên Tạp chí Tài chính. Bài viết đã phân tích thực trạng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sang Liên bang Nga như cà phê, hạt tiêu, chè, rau, quả, gạo… Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra những tác động từ FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu đến xuất khẩu những mặt hàng nông sản này. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga, nhằm tận dụng những lợi thế từ FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu.
Có thể thấy, Liên bang Nga là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam từ những năm 90 đến nay, nhất là đối với các sản phẩm như cà phê, hạt tiêu, chè, rau, quả, gạo. Năm 2015, Việt Nam và Liên bang Nga đã tham gia ký kết FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu. Đây là FTA đầu tiên của Liên minh kinh tế Á- Âu, mở ra một cơ hội lớn cho xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Liên minh kinh tế Á-Âu nói chung và thị trường Liên bang Nga nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga ở Việt Nam trong bối cảnh FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu vẫn còn khá ít và chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung của Việt Nam sang Liên bang Nga.
2.4. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu
2.3.1. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu
Với vai trò đặc biệt quan trọng đối với vấn đề phát triển kinh tế của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam được nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Liên bang Nga là đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU - bao gồm các nước Liên bang Nga, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan, Cộng hòa Armenia và Cộng hòa Kyrgyzstan) đã được ký kết ngày 29 tháng 5 năm 2015, và có hiệu lực từ ngày 05 tháng 10 năm 2016. Việc ký kết FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu đặt ra nhiều cơ hội đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Liên bang Nga, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức về chất lượng sản phẩm cũng như các rào cản kỹ thuật đối với hàng hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, từ tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy liên quan đến xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga, các công trình chuyên sâu vẫn còn rất hạn chế; chủ yếu là các nghiên cứu sơ bộ, mang tính chất khái quát, định tính. Các nghiên cứu khác chủ yếu chỉ tập trung vào một hoặc một số mặt hàng chủ lực như dệt may, nông sản, thủy sản. Ngoài ra khi nghiên cứu cơ sở lý thuyết về xuất khẩu và các nhân tố ảnh hưởng đến đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Liên bang Nga, đặc biệt trong bối cảnh FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu được thực thi.
2.3.2. Khoảng trống nghiên cứu
Có thể thấy, hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên minh kinh tế Á-Âu nói chung và thị trường Liên bang Nga nói riêng vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức và phát triển chưa thực sự tương xứng với những cơ hội mà FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu mang lại. Theo kết quả của từng công trình đã công bố thì mặc dù đã có một số nghiên cứu về xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga, tuy nhiên, có khá ít nghiên cứu về xuất khẩu của Việt Nam sang Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu. Cụ thể, phần lớn các công trình nghiên cứu chưa đặt hoạt động xuất
khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á-Âu đã đi có hiệu lực thực thi, có những tác động cả tích cực và tiêu cực đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga.
Cũng theo kết quả nghiên cứu, có khá ít nghiên cứu đã công bố xây dựng một mô hình đầy đủ về các nhân tố ảnh hưởng đến đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam nói chung và xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga nói riêng, dẫn đến việc chưa thể có một nhận định, đánh giá trực diện đối với hiệu quả của FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á-Âu đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga.
Điều đó cho thấy sự cần thiết phải có một nghiên cứu ở giác độ vĩ mô một cách đầy đủ, toàn diện về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Liên bang Nga, đồng thời phải đánh giá ở mức độ nhất định về tác động của FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu theo một khung lý thuyết cụ thể, từ đó đề ra các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi FTA Việt Nam
– Liên minh kinh tế Á-Âu.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong giai đoạn trước và sau khi FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu có hiệu lực; đánh giá ở mức độ nhất định tác động của FTA đến hoạt động xuất khẩu theo Mô hình Viner về tác động của Hiệp định thương mại tự do (1950) thông qua hai cơ chế tạo lập thương mại và chuyển hướng thương mại; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ cụ thể của nghiên cứu bao gồm:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng hóa, tác động của FTA đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông qua cơ chế tạo lập thương mại và chuyển hướng thương mại; giới thiệu chung về FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu.
- Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu.
- Làm rõ những vấn đề đang đặt ra đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu đã có hiệu lực thực thi và bắt đầu có những tác động, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Dữ liệu nghiên cứu về thực trạng hoạt động xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga được thu thập trong giai đoạn 8 năm từ năm 2013 đến năm 2020. Luận án lựa chọn giai đoạn này để so sánh những tác động của FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu đến xuất khẩu của Việt Nam sang Liên bang Nga trong giai đoạn trước khi FTA có hiệu lực (2013 – 2016) và sau khi FTA có hiệu lực (2017 – 2020). Các giải pháp đề xuất thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Liên bang Nga được đề xuất cho giai đoạn 2021 đến 2025, định hướng đến 2030. Khoảng thời gian nghiên cứu như trên được tác giả nhận định là đủ dài để có thể đánh giá, nhận định về thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga cũng như tác động của bối cảnh thực thi FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung:
Thứ nhất, Luận án tập trung đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga theo các tiêu chí: Kim ngạch xuất khẩu, thị phần
xuất khẩu và cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu và lợi thế so sánh phản ánh sự tăng trưởng về quy mô xuất khẩu, trong khi đó, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị phần xuất khẩu thể hiện sự biến động về chất lượng xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Thứ hai, Luận án lựa chọn phân tích cụ thể ba nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Liên bang Nga gồm nông sản, thuỷ sản và dệt may. Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nói chung và Liên bang Nga nói riêng. Đây cũng là nhóm các mặt hàng được hưởng lợi nhiều nhất từ FTA Việt Nam
– Liên minh kinh tế Á-Âu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp, dữ liệu thứ cấp, phương pháp nghiên cứu tại bàn, điều tra khảo sát với thu thập dữ liệu là phỏng vấn chuyên gia.
Nguồn dữ liệu:
Tư liệu thứ cấp thu thập từ Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê, các số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam thường niên của Bộ Công thương, các website của các Hiệp hội ngành hàng của Việt Nam như Hiệp hội Dệt may, Hiệp hội Da giày, Hiệp hội Thủy sản,... và các website quốc tế về thống kê trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Tư liệu sơ cấp thu thập từ điều tra, phỏng vấn sâu với các chuyên gia đang công tác tại các cơ quan quản lý, các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp như: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng cục Thủy sản Việt Nam, Cục chế biến và phát triển thị trường Nông sản, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics,…
- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, nội dung phỏng vấn liên quan đến các vấn đề như đánh giá về tác động của FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu đến xuất khẩu của Việt Nam – Liên bang Nga, những nhóm mặt hàng được hưởng