Bài Học Kinh Nghiệm Cho Việt Nam Trong Quản Lý Chi Nsnn Trong Đầu Tư Xdcb


hành chính vẫn có thể được cải thiện nhằm tăng hiệu quả chi đầu tư XDCB. Vì vậy, năng lực quản lý đầu tư công cần được phát triển. Hướng dẫn là không hiệu quả nếu công chức không có kỹ năng để thực hiện một cách nhất quán. Cho đến những năm 1990, Ireland đã có kinh nghiệm nhất định trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông lớn. Kể từ đó, Sở Tài chính đã đóng một vai trò chính trong việc thiết lập một hệ thống quản lý dự án tổng thể. Đào tạo chuyên môn cho cán bộ cũng được quan tâm và thực hiện.

2.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB

Trong điều kiện kinh tế thị trường, bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng cần chú ý hiệu quả, chi ngân sách cũng vậy, cũng cần chú ý đến hiệu quả. Có thể nói theo đuổi hiệu quả lớn nhất hoặc hiệu quả tốt nhất của chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản là điểm xuất phát căn bản của tăng cường quản lý chi ngân sách. Hiệu quả chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Đánh giá hiệu quả chi ngân sách NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản là tiến hành đo lường hiệu quả kinh tế - xã hội đã có được từ chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản cao hay thấp, nhằm mục đích tăng cường kiểm soát vĩ mô và quản lý vi mô của chi ngân sách, thúc đẩy phân phối và sử dụng hợp lý vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản.

Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc

Một là, địa phương nào cũng tham gia vào đầu tư xây dựng cơ bản nhưng mức độ tham gia khác nhau phụ thuộc vào từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, thực hiện tối ưu cơ cấu chi NSNN trong đầu tư XDCB. Vì vậy, cần có phương pháp khoa học để xác định rõ ràng phạm vi chi để đạt được hiệu quả chi NSNN trong đầu tư XDCB.

Ba là, Nguồn lực ngân sách nhà nước là hạn chế, hơn nữa đầu tư nhà nước không đem lại hiệu quả cao hơn đầu tư tư nhân nên hầu hết các nước trên thế giới đều chuyển đổi đối tượng mà khu vực tư nhân có thể đầu tư được cho thành phần


kinh tế này đảm nhiệm để nâng cao hiệu quả chi NSNN cho đầu tư xây dựng cơ bản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

Bài học kinh nghiệm từ Hàn Quốc

Một là, cần có một hướng dẫn cụ thể cho từng khâu quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB, các phương pháp đánh giá, kỹ thuật đánh giá và các chỉ tiêu đánh giá cụ thể cho từng lĩnh vực đầu tư XDCB.

Quản lý chi ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định - 11

Hai là, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng. Các cơ quan đánh giá, kiểm tra, thanh tra giúp cho các cơ quan quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB có thông tin, kế thừa và phản hồi để ngày càng hoàn thiện quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư XDCB.

Ba là, chú trọng hơn trong việc tuyển dụng và đào tạo nhân viên, cán bộ quản lý chuyên nghiệp tham gia quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB.

Bốn là, quy định trách nhiệm rõ ràng trong từng khâu quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB. Đề cao trách nhiệm của người quyết định đầu tư, người quyết định đầu tư là người chủ dự án, có đủ trình độ chuyên môn, chịu trách nhiệm và được hưởng kết quả từ đầu tư.

Năm là, tăng cường tính hiệu lực của đánh giá và sau đánh giá. Các đánh giá được sử dụng để rút kinh nghiệm cho các năm sau, mà đặc biệt là phải nghiêm túc quy định rõ trách nhiệm của các sai phạm, thất thoát do quản lý. Các đánh giá là cơ sở cho các thưởng phạt nhằm tránh lặp lại sai phạm trong quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB.

Bài học kinh nghiệm từ các nước EU

Một là, các nước thuộc EU đều coi trọng công tác lập kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch đầu tư phải gắn kết chặt chẽ với ngân sách, chính sách và chiến lược phát triển của đất nước, của địa phương.

Hai là, các nước áp dụng MTEF (khuôn khổ chi tiêu trung hạn) để quản lý chi tiêu công trong trung và dài hạn nhằm có kế hoạch vốn dài hơi cho đầu tư xây dựng cơ bản.


Ba là, coi trọng công tác thẩm định, đặc biệt là phân tích lợi ích của dự án đầu tư XDCB, nó quyết định một dự án có được chấp nhận hay không, nên phân bổ nguồn vốn hạn chế đó cho dự án A hay dự án B nhằm đạt được hiệu quả cuối cùng của chi ngân sách nhà nước. Vì vậy, cần hướng dẫn cụ thể hơn các phương pháp, kỹ thuật thẩm định cho từng chính sách, chương trình, dự án đầu tư XDCB; các kết quả đầu ra và kết quả của mỗi chính sách, chương trình, dự án cần có các quy định rõ ràng và có chỉ tiêu đo lường cụ thể.

Bốn là, công tác thanh tra, kiểm tra có ý nghĩa thật sự, kết quả đánh giá được sử dụng để điều chỉnh, hoàn thiện công tác quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB ở tương lai. Tăng cường giám sát của cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để người dân kiểm tra hiệu quả của chi ngân sách.

Năm là, hoạt động đầu tư của các nước đều được quản lý bằng luật, các điều khoản cụ thể, chi tiết đều được đưa vào luật. Có thể thiết lập một sổ tay quản lý đầu tư công cho các cán bộ quản lý để họ có thể nắm quy trình cụ thể, không bị sai sót trong quá trình quản lý. Các nước đều đề cao trách nhiệm của người quyết định đầu tư, người quyết định đầu tư là người chủ dự án, có đủ trình độ chuyên môn, chịu trách nhiệm và được hưởng kết quả từ đầu tư.

Sáu là, nhân tố con người và kỹ năng quản lý đầu tư xây dựng cơ bản luôn được coi trọng và được chú trọng đầu tư một cách thích đáng.


Kết luận chương 2

Tầm quan trọng của chi NSNN trong đầu tư phát triển đã đặt ra cho thực tiễn nghiên cứu thực trạng quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn địa phương nói riêng và trong cả nước nói chung. Vì vậy, để có cơ sở khoa học sát đáng cho vấn đề nghiên cứu, trong chương 2 những vấn đề cơ bản được tập trung giải quyết:

+ Luận giải khái niệm đầu tư XDCB, phân tích các đặc điểm của đầu tư XDCB; các giai đoạn của đầu tư XDCB và đặc điểm riêng trong từng giai đoạn đầu tư XDCB cần chú ý để nâng cao hiệu quả đầu tư XDCB.

+ Luận giải khái niệm vốn đầu tư XDCB và các nguồn vốn cho đầu tư XDCB.

+ Luận giải khái niệm quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB; nguyên tắc quản lý và cấp phát vốn đầu tư XDCB của NSNN; nội dung quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB và đưa ra các chỉ tiêu đánh giá quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB.

+ Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB nói chung.

+ Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB của các quốc gia khác trong khu vực và các quốc gia có nền kinh tế phát triển, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB cho một địa phương.

Những vấn đề lý luận trên đây sẽ được vận dụng để phân tích, đánh giá thực trạng quản lý chi NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh Bình Định.


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XDCB TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH

3.1. Khái quát thực trạng chi đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh Bình Định


3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định

3.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Bình Định là một trong 5 tỉnh nằm trong địa bàn vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, một vùng kinh tế có nhiều khu kinh tế với các cơ chế ưu đãi, trong đó có khu kinh tế Nhơn Hội thuộc tỉnh Bình Định. Diện tích tự nhiên toàn Tỉnh là 6024 km2, dân số năm tính đến năm 2010 gần 1,5 triệu người, chiếm 1,9% dân số so với cả nước, chiếm 18,2% diện tích và 22,1% về dân số vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, nam giáp tỉnh Phú Yên, phía tây giáp tỉnh Gia Lai, phía đông giáp biển Đông. Toàn Tỉnh có 159 xã, phường, thị trấn thuộc 10

huyện và 1 thành phố.

Bình Định có vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế xã hội, vị trí và vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thực tế những năm qua, lợi thế này đã được Tỉnh khai thác tương đối tốt và sẽ còn được phát huy trong tương lai.

Với vị trí trung tâm trên các tuyến giao lưu quốc tế và liên vùng, tuyến trục Bắc Nam và Đông Tây của miền Trung, gần đường hàng hải quốc tế, là cửa ngõ hướng biển của các nước trong Tiểu khu vực Mê Kông mở rộng, đặc biệt là với các nước Lào, Campuchia và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan.

Vị trí địa lý trên tạo điều kiện thuận lợi để Bình Định khai thác các thế mạnh về tiềm năng lao động, đất đai, các nguồn tài nguyên cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, giao lưu thông thương với các tỉnh trong nước và quốc tế, hòa nhịp với xu thế phát triển chung của cả nước để Bình Định trở thành một trong những tỉnh phát triển ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.


3.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Tỉnh Bình Định.

Kinh tế của tỉnh thời kỳ 2001 - 2010 trưởng liên tục, năm sau cao hơn năm trước. Nhịp độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2001 - 2010 bình quân hàng năm 9%. GDP bình quân đầu người (theo giá USD thực tế) gần 600 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, năm 2010 tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ tương ứng là 34% - 32% - 34%. Con số này cho thấy tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, xu hướng này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.

Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh trong đó sản phẩm bằng gỗ chiếm 58,6%, nhóm hàng nông sản 17,1%, nhóm hàng thuỷ sản 8,6%. Sản phẩm xuất khẩu đa dạng hơn, thị trường xuất khẩu của một số mặt hàng được mở rộng. Hàng hoá xuất khẩu của Bình Định hiện có mặt tại nhiều nước. Hàng hoá nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất. Hoạt động nội thương phát triển mạnh và đa dạng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng bình quân từ năm 2000 - 2010 hơn 14,7%/năm.

Các hoạt động tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tư vấn, kỹ thuật, tin học... tiếp tục mở rộng và làm ăn có hiệu quả.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

Tổng nguồn vốn huy động và quy mô đầu tư xây dựng các kết cấu hạ tầng năm sau cao hơn năm trước trong những năm gần đây. Vốn đầu tư từ ngân sách đã tập trung cho những công trình trọng điểm và các công trình bức thiết về kinh tế - xã hội, quan tâm đầu tư cho vùng nghèo, miền núi.

Từ năm 2000 đến nay, đã xây dựng mới 4 hồ chứa và 7 đập dâng, nâng cấp 60 công trình thủy lợi lớn nhỏ, kiên cố hoá 135 km kênh mương các loại, diện tích tưới chủ động đạt 57,5% tổng diện tích cây hàng năm, trong đó cây lúa 70,4%.

Hoàn thành cải tạo, nâng cấp 467 km đường tỉnh; bê tông hoá được 1.600km đường giao thông nông thôn, 390 km trong số 442 km đô thị. Hoàn thành việc xây dựng đường Quy Nhơn - Sông Cầu, đường ven biển Nhơn Hội - Tam Quan. Đến


nay, hầu hết các xã (trừ xã đảo Nhơn Châu) có đường ô tô đến trung tâm xã; chỉ còn 3 xã vùng cao là Canh Liên, An Toàn, An Nghĩa đi lại khó khăn trong mùa mưa.

Hệ thống lưới điện được đầu tư mở rộng, nâng cấp, đến nay 100% số thôn trong Tỉnh đã có điện (trong đó có 4 xã và 29 thôn sử dụng điện diezen), số hộ sử dụng điện trong toàn Tỉnh đạt 98,2%. Các xã An Toàn, An Nghĩa (An Lão), Canh Liên (Vân Canh) chưa có điện lưới quốc gia.

Hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông đã được tích cực đầu tư phát triển mạng lưới thiết bị kỹ thuật. Hệ thống các bưu điện, bưu cục đã phủ kín toàn Tỉnh, hệ thống điện thoại đã đến tất cả các xã, phường, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của nhân dân.

Hạ tầng đô thị thành phố Quy Nhơn và các thị trấn được đầu tư nâng cấp tốt hơn. Đã nâng cấp xong Nhà máy Nước Quy Nhơn đạt công suất 45.000 m3/ngày đêm. Đang triển khai hệ thống cung cấp nước sạch từ nguồn vốn của Ngân hàng thế giới cho 9 thị trấn và của Chính phủ Bỉ cho 1 thị trấn.

Cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao được nâng cấp, cơ bản đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Các cơ sở giáo dục đến nay không còn trường lớp tranh tre. Bệnh viện Đa khoa Tỉnh, các bệnh viện chuyên khoa và bệnh viện tuyến huyện, thành phố đã từng bước được nâng cấp, kể cả trang thiết bị. Các trạm xá xã, phường đã được nâng cấp và xây mới.

Các lĩnh vực văn hóa - xã hội, khoa học và công nghệ

Giáo dục - đào tạo - dạy nghề phát triển mạnh về cơ sở vật chất, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các loại hình đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân lực.

Hoạt động khoa học công nghệ đã tập trung vào việc nghiên cứu, ứng dụng nhằm sử dụng có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của nền kinh tế.


Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất được đẩy mạnh. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật tăng cả về số lượng và chất lượng.

Hệ thống y tế từ Tỉnh đến cơ sở được tiếp tục củng cố, kiện toàn. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, 100% số xã, phường, thị trấn có trạm y tế và được trang bị một số dụng cụ cần thiết cho khám chữa bệnh tuyến cơ sở; số trạm xá xã, phường, thị trấn có bác sỹ chiếm 80%. Quan tâm hơn đến hoạt động văn hóa - thông tin, các hoạt động xã hội, chăm lo đời sống người dân, đặc biệt là những người có công với nước, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…

Chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được củng cố và giữ vững

Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới của đất nước, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được như trên, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định còn những hạn chế, bức súc cần được giải quyết như:

Thứ nhất là, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhìn chung chưa tương xứng với nguồn lực, tiềm năng của Tỉnh. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân còn cao (70,1%). Thiếu lao động có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi.

Thứ hai là, nằm cách xa hai trung tâm kinh tế sôi động và phát triển mạnh là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội nên Bình Định bị hạn chế trong nhiều lĩnh vực kể cả thông tin kinh tế, thông tin thị trường và công nghệ...

Thứ ba là, nguồn lực cho đầu tư phát triển của địa phương còn hạn hẹp đặc biệt là vốn. Cơ cấu đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ chưa thật hợp lý, chưa tạo ra cơ cấu kinh tế phù hợp, dẫn đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh kém.

Xem tất cả 212 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí