Đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng - 9

Một mặt khác là do các giao dịch kinh tế hiện nay coi trọng sự thỏa thuận, thỏa thuận lãi suất, thỏa thuận số tiền vay, các khoản tiền gửi miễn là không vượt quá mức trần do NHNN quy định, không vượt quá hạn mức được duyệt đã khiến các cán bộ ngân hàng trở nên linh hoạt, sự linh hoạt này nhiều khi đã đi quá giới hạn dẫn đến các vi phạm pháp luật.

Hơn nữa, trong điều kiện các giao dịch đều sử dụng tiền mặt thì việc tìm ra đường đi của các dòng tiền khi đã đi vào lưu thông là điều không thể đã tạo điều kiện cho tội phạm kinh tế, nhất là tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng tăng cao. Chính việc dùng tiền mặt trong các quan hệ mua bán trao đổi như hiện nay mà nạn tham nhũng, tiêu cực có khả năng gia tăng trên diện rộng và không có khả năng kiểm soát.

Một nguyên nhân nữa của tệ tham nhũng tồn tại trong lĩnh vực ngân hàng đó là do ảnh hưởng của tập quán văn hóa như “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, không những “đền ơn” mà còn phải “đáp nghĩa”. Chi phí mà mình bỏ ra đó thực sự không đáng kể so với những gì khoản tiền vay mà mình được lĩnh, đó là một phần của chi phí quan hệ, lần này còn lần sau.

Về hệ thống các văn bản pháp lý về quy định xử phạt của ngành nhiều khi thiên về giáo dục, phòng ngừa, khắc phục hậu quả hơn là trừng trị đã làm giảm tính răn đe đối với các vi phạm phát sinh về sau.

Trong hoạt động của các ngân hàng đều có bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Nhưng bộ phận này làm việc ngay tại chính ngân hàng mà mình kiểm tra nên nhiều khi chưa thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn theo quy định, chưa phát hiện và báo cáo kịp thời các sai phạm và rủi ro hoạt động ngân hàng, chưa đưa ra các kiến nghị chỉnh sửa hoặc theo dõi chặt chẽ việc chấn chỉnh sửa sai tại các đơn vị thành viên, chưa tập trung kiểm tra sâu về tuân thủ quy trình tác nghiệp của các phần hành nghiệp vụ ngân hàng.

Với điều kiện làm việc phụ thuộc hoàn toàn vào mạng máy tính nên nếu lỗi mạng, hay an ninh mạng không được thắt chặt đã tạo điều kiện cho chính những tay trong ngân hàng hoặc một số người am hiểu mạng xâm nhập lấy tiền của ngân hàng.

2.6.2- Nguyên nhân chủ quan:


2.6.2.1- Về năng lực, phẩm chất cán bộ:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Các vụ việc vi phạm đã phát hiện trong năm 2001-2005 có nguyên nhân chủ yếu từ phẩm chất đạo đức một bộ phận cán bộ ngân hàng thoái hóa, biến chất, cố ý làm trái các quy định dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

Có những cán bộ biết rõ là sai song vẫn làm vì mục đích của bản thân như điều kiện kinh tế, đã tìm mọi cách để có tiền từ người vay, từ sở hở trong quản lý tài sản của ngân hàng bằng cách tự đặt ra các khoản phí, tự đi thu tiền của khách hàng trả nợ rồi bỏ túi cá nhân, bằng lời nói, bằng cách trì hoãn thời gian giải ngân để vòi vĩnh khách hàng chi tiền phần trăm, gây khó khăn nếu khách hàng không đáp ứng các yêu cầu đưa ra.

Đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng - 9

Đơn cử như vụ tham ô tại chi nhánh NHNNo Điện Biên, cả 3 cán bộ (tín dụng, kế toán, ngân quỹ) ham mê chơi cờ bạc. Lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao, thông đồng có tính chất khép kín, cố tình thực hiện sai chế độ, lập chứng từ giả, tự ý sửa chữa số liệu sổ sách lừa đảo, chiếm đoạt tiền vay do khách hàng trả nợ thu không nộp, nhờ người thân vay ké, vay hộ, thu tiền gửi tiết kiệm của khách hàng không vào sổ sách hoặc vào sổ ít hơn số tiền khách hàng thực gửi để lấy tiền chơi và trả nợ đề, chi dùng cá nhân.

Phần khác là do trình độ cán bộ ở một số chi nhánh nhất là vùng xa còn hạn chế, chưa hiểu hết quy trình làm việc, phong cách nể nang, làm việc theo kiểu gia đình, coi trọng tình nghĩa đã bỏ qua hết các yêu cầu về thủ tục hồ sơ, dễ dàng chấp nhận cho vay.

Nhưng không phải sai phạm nào cũng vì mưu lợi tài chính mà còn do tham vọng của bản thân mong có nhiều thành tích tốt, cho vay được nhiều món vay, có dư nợ cho vay lớn nên cũng vì thế mà đi ngược lại các quy định của ngành với mong muốn rằng kết quả đưa đến cho mình chắc rằng không xấu như một kiểu cầu may.

Cũng giống như bất kỳ ngành kinh tế nào, những người nắm trong tay các chức danh quản trị và điều hành mạng luôn là những người am hiểu về ngân hàng của mình hơn ai hết, các kẽ hở đã được họ lợi dụng với các thủ

đoạn tinh vi, được che chắn bằng các giao dịch hợp pháp, sai phạm chỉ được tìm ra khi truy đến tận gốc của khoản tiền đã chuyển. Những người này đã làm trái với đạo đức nghề nghiệp và lương tâm của bản thân, sẵn sàng lợi dụng trọng trách được giao để gây nguy hại cho hoạt động ngân hàng, gây lỗi toàn hệ thống, như vậy không chỉ những nhà quản lý ngân hàng mới phải chịu hình phạt cấm thực hiện đảm nhiệm chức vụ, quyền hạn mà ngay cả những người quản trị mạng khi có hành vi sai phạm cũng phải chịu hình phạt này.

2.6.2.2- Về kiểm tra, kiểm soát nội bộ:


Nhìn chung bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ của các TCTD cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Việc kiểm tra chỉ mới dừng lại ở khâu xem xét, tham gia một số phần hành nghiệp vụ về chấp hành một số quy định về thủ tục giấy tờ như thiếu chứng từ kế toán, thiếu thủ tục hồ sơ cho vay, chưa tập trung kiểm tra sâu về việc chấp hành cac squy trình nghiệp vụ nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời các sai phạm.

Bộ phận kiểm tra, kiểm soát của chi nhánh thường xuyên thực hiện việc kiểm toán theo định kỳ, nhưng khi phát hiện sai phạm thì cũng không có các biện pháp xử lý kịp thời.

Như vậy, các nguyên nhân đưa đến các sai phạm trong ngân hàng gồm có các nhóm nhân tố chính như sau:

Nhóm các yếu tố có tính chất kinh tế –xã hội: Đất nước ta đã chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, thời gian thực sự hoà bình để tập trung toàn lực cho phát triển kinh tế xã hội ngắn ngủi. Bên cạnh đó, từ sau ngày thống nhất đất nước, chúng ta tiếp tục duy trì quá lâu cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp nên kìm hãm phát triển, sản xuất không đủ tiêu dùng,

đời sống nhân dân khó khăn, thu nhập của người lao động thấp, thất nghiệp tăng, tiêu cực, làm ăn gian dối, đạo đức xã hội xuống cấp, luật pháp không

được thực hiện nghiêm túc, khi chuyển đổi cơ chế kinh tế thị trườnglại bị những mặt trái của cơ chế này tác động. Những tồn tại trên lại gián tiếp hoặc trực tiếp tác động đến đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng, những người đang quản lý một khối lượng lớn tài sản của Nhà nước và nhân dân.

- Nhóm các yếu tố về cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường, ngành ngân hàng tiếp thu nhiều kỹ thuật, công nghệ mới, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm nên không tránh khỏi sơ hở, thiếu sót trong quá trình hoàn thiệncơ chế quản lý kinh doanh ngân hàng. Các hành vi tham ô, hối lộ, bớt xén công quỹ, lạm dụng quyền hạn, cố ý làm trái để trục lợi, vi phạm các quy định của Nhà nước trong các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, dự án trang bị công nghệ ngân hàng vẫn còn xảy ra. Xuất hiện cụ thể các hanh vi phạm tội như: tham ô, ăn hối lộ,

ăn hoa hồng, lợi dụng chức vụ, câu kết với khách hàng để rút tiền của ngân hàng.

- Nhóm các yếu tố có tính chất kỹ thuật, công nghệ: Quy trình nghiệp vụ còn mang tính chất thủ công, thiết bị lạc hậu, phương tiện bảo vệ, kiểm tra còn thiếu dễ tạo sơ hở cho nhân viên phát sinh tiêu cực.

- Nhóm các yếu tố có tính chất giáo dục, đạo đức, tâm lý: Trình độ, năng lực, kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, kinh doanh của nhiều cán bộ, nhân viên ngân hàng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, tư tưởng còn có mặt yếu kém, quản lý cán bộ lỏng lẻo, nên tạo sơ hở phát sinh tiêu cực dẫn đến phạm tội.

- Nhóm các yếu tố có tính chất pháp lý: Hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập, chồng tréo, thiếu đồng bộ. Điều đó cũng tất yếu dẫn đến việc tạo những kẽ hở trong hệ thống luật pháp trong đó có pháp luật ngân hàng mà những người có hành vi phạm tội lợi dụng để mưu cầu lợi ích cho mình.

2.6.3- Đối chiếu các sai phạm trong hoạt động ngân hàng với các quy

định của Bộ Luật hình sự hiện hành:

Đối chiếu các vi phạm trong ngân hàng được quy định tại chương XVI- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế điều 178: tội sử dụng trái phép quỹ dữ trự bổ sung vốn điều lệ, điều 179 tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng: cho vay sai đối tượng, vượt quá hạn mức, cho vay một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, điều 251: tội hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có- chương XIX các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, chương XX các tội phạm về tham nhũng từ điều 278- 284 và điều 285 biểu hiện là những trường hợp này đều có hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ, trách nhiệm thực hiện trong khi thực thi nhiệm vụ như tham ô tiền gửi của khách; nhận hối lộ để làm hoặc không làm một việc như thẩm định sai, cố tình cho vay sai; lạm dụng chứ vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản như thu lãi không nộp lại ngân hàng, tự ý đặt ra mức lệ phí khi cho vay; giả mạo trong công tác: làm giả, làm sai lệch hồ sơ, chứng từ; thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: như do chứng từ nhiều, lợi dụng sơ hở kẻ gian đã ké chứng từ vào để lãnh đạo phê duyệt, nhưng thường được áp dụng khi không định được tội danh khác.

Các quy định của Bộ luật hình sự đã ghi nhận hầu hết các tội danh trong hoạt động ngân hàng, với Luật hình sự 1999 đưa điều 178, 179, 251 vào các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội xâm phạm trật tự công cộng là hợp lý nhưng vẫn thiếu sự điều chỉnh đối với tội phạm công nghệ cao.

Từ thực tế hoạt động cũng như quy định của pháp luật, việc xét xử tội phạm ngân hàng thường hay quy về các tội phạm tham nhũng. Tham nhũng không chỉ dừng lại ở việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phạm tội của các lĩnh vực, các ngành khác mà còn khiến cán bộ thỏa hiệp và hành động trái với lợi ích công đã làm hủy hoại sự ổn định của hệ thống quản lý nói chung và làm giảm lòng tin của công chúng vào các cán bộ Nhà nước, lũng đoạn thị trường bằng các hoạt động bất hợp pháp, gây rủi ro cho toàn hệ thống bằng cách nhận hối lộ để tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch bất minh.

Tổng kết số liệu thiệt hại qua các năm cho thấy


Năm 2000 thiệt hại 298.435 triệu đồng và 974.416 USD


Năm 2001 thiệt hại 1.645.653 triệu đồng, tăng % so với năm 2000 Năm 2002 thiệt hại 877.977 triệu đồng, giảm 47% so với năm 2001

Năm 2003 thiệt hại 787.730 triệu đồng và 8916,121 USD, 35 lượng vàng tăng % so với năm 2002

Năm 2004 thiệt hại 5.051.507 triệu đồng và 10569,866 USD tăng % so với năm 2003

Năm 2005 thiệt hại 1.910.808 triệu đồng và 2.400.396 USD giảm % so với năm 2004

Năm 2006 thiệt hại 6.762 triệu đồng và 1.213.336 USD tăng % so với năm 2005.

Số liệu thống kê cho thấy chỉ năm 2000 có tổng thiệt hại thấp nhất, các năm từ 2001 trở đi dù con số thiệt hại năm sau có tăng hoặc giảm hơn năm trước, nhưng thiệt hại ước tính lên tới hàng trăm nghìn tỉ và hàng nghìn tỉ là không hề sai. Đây mới chỉ là con số thống kê chưa đầy đủ, trên thực tế con số này còn lớn hơn rất nhiều.

Trong số tổng thiệt hại mà các sai phạm gây ra thì riêng nghiệp vụ tín dụng đã chiếm con số không nhỏ, thường là qua mức 50%.

2.2.1- Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng:

Qua các số liệu mà Thanh tra NHNN cung cấp thì thực tế ở Việt Nam các hành vi sai phạm phát sinh nhiều ở khâu tín dụng, việc cố ý làm sai cũng nảy sinh nhiều ở khâu này và qua thanh tra kiểm tra, không ngân hàng nào là không có.

Tại báo cáo tổng kết tình hình tội phạm kinh tế và rủi ro trong hoạt

động ngân hàng năm 2001-2005 của Thanh tra NHNN thì:

Về tín dụng: Cán bộ ngân hàng tham ô, vay ké, xâm tiêu: 80 vụ, số tiền 69.833 triệu đồng, đã xử lý thu hồi 61 vụ, số tiền:14.607 triệu đồng.

Tổ vay v ốn tham ô, xâm tiêu 557 vụ, số tiền 20.699 triệu đồng, đã xử lý thu hồi 509 vụ, số tiền 15.496 triệu đồng.

Riêng 2000 những thiệt hại do sai phạm về tín dụng chiếm 97,5 % tổng thiệt hại so với các vi phạm khác, tổng số tiền là: 291.054 triệu đồng &

920.545 USD.


Năm 2001 là 80,07 %, tổng số tiền: 1.317.694 triệu đồng. Năm 2002 là 95,1%, tổng số tiền: 834.927 triệu đồng.

Năm 2003 là 89,98%, tổng số tiền: 708.827 triệu đồng. Năm 2004 là 98,4%, tổng số tiền: 4.971.789 triệu đồng Năm 2005 là 95,8%, tổng số tiền: 1.831.090 triệu đồng. Năm 2006 là 30%, tổng số tiền: 1.988 triệu đồng.

Như vậy, rõ ràng chỉ qua ước tính của NHNN thì chỉ qua 7 năm gần đây con số thiệt hại mà các sai phạm ngân hàng gây ra với nền kinh tế quốc dân trị giá: 10.578.872 tỷ đồng, riêng sai phạm trên lĩnh vực tín dụng chiếm: 8.128.110 triệu

đồng. Dẫn đến giảm tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, giảm đóng góp thu nhập quốc dân hàng tỷ đồng. Tất cả những sai phạm đó không phải là bất khả kháng, không phải hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan mà chủ yếu là do những con người xác định, với hành vi cụ thể và với ý thức rõ ràng đã cố tình hay sơ ý thực hiện.

2.2.1.3- Cho v ay không có đảm bảo, trái quy định của pháp luật: Về quy trình nghiệp vụ:

Để có được một khoản vay từ ngân hàng phải đáp ứng được tối thiểu các yêu cầu sau:

Khách hàng được hướng dẫn làm thủ tục hồ sơ: tên khách hàng, địa chỉ, ngành nghề kinh doanh, công việc đang làm, số tiền đề nghị vay, thời gian, lãi

suất, mục đích vay, thời gian trả nợ, hình thức trả nợ gốc & lãi, tài sản đảm bảo (nếu có).

Tại ngân hàng nhận được hồ sơ vay vốn tiến hành các bước: Thẩm định khách hàng vay vốn

Đưa ra mức thu nhập dự kiến nếu phê duyệt khoản vay Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh

Phân tích hiệu quả & khả năng trả nợ khoản vay Phân tích rủi ro

Xác định các quan hệ của khách hàng vay vốn với các TCTD khác Phân tích ngành hàng

Xác định tài sản đảm bảo nợ vay


Kết quả chấm điểm tín dụng & xếp hạng khách hàng Kết luận và đề xuất của cán bộ tín dụng

Kết luận và đề xuất của trưởng phòng tín dụng hoặc người được uỷ quyền

Quyết định của Giám đốc ngân hàng cho vay hoặc người được uỷ quyền Hồ sơ kèm theo.

Các bước để quyết định có hay không một khoản vay từ ngân hàng cần trải qua nhiều tầng nấc, nhiều mảng nghiệp vụ, có sự tham gia phân tích, đánh giá của đội ngũ nhân viên có năng lực và phẩm chất nhất định.

Để nâng cao khả năng thanh toán các khoản nợ cho ngân hàng thì ngoại trừ việc cho vay tiêu dùng đối với CBCNV, cho vay chương trình xóa đói giảm nghèo không cần có TSĐB, với nghiệp vụ bảo lãnh, phát hành L/C luôn quy

định một mức ký quỹ nhất định tùy theo quy định và chính sách khách hàng của từng ngân hàng, còn lại các khoản cho vay của khách hàng luôn phải có

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 07/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí