2.3.3. Qui chế chi tiêu nội bộ
Hiện nay, bệnh viện đã thực hiện xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để huy động nguồn thu và kiểm soát chi tiêu sao cho hiệu quả. Nội dung của quy chế quy định định mức, tiêu chuẩn các khoản chi về tiền lương, phụ cấp cho người lao động, định mức chi cho công tác quản lý, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi mua sắm sửa chữa và trích lập các quỹ. Ngoài ra, bệnh viện cũng xây dựng rất nhiều nội dung chi tiêu cụ thể khác trong quy chế chi tiêu nội bộ theo quy định hiện hành của nhà nước.
2.3.4. Hạch toán, kế toán
Công tác hạch toán kế toán trong bệnh viện đến hết năm 2017 được thực hiện theo Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC về việc ban hành Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp. Đồng thời bệnh viện cũng đã nghiêm túc thực hiện Luật NSNN số 83/2015/QH13 ngày 26/6/2015 của Quốc hội.
2.3.5. Thanh tra, kiểm tra
Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra tại bệnh viện được thực hiện thường xuyên và đột xuất cụ thể như sau:
- Kiểm tra, thanh tra thường xuyên:
+ Bệnh viện đã thành lập ban thanh tra nhân dân có nhiệm vụ thanh tra kiểm tra tất cả các mảng hoạt động tại bệnh viện trong đó có thanh tra kiểm tra nội bộ định kỳ về tài chính.
+ Hàng ngày, kho bạc nhà nước là nơi kiểm soát tất cả các hoạt động thu chi tài chính có nguồn gốc NSNN của bệnh viện thông qua quy chế chi tiêu nội bộ của bệnh viện.
- Kiểm tra, thanh tra đột xuất: Ngoài các hoạt động kiểm tra, thanh tra thường xuyên được thực hiện như trên, công tác kiểm tra, thanh tra đối với quản lý tài chính các bệnh viện còn có các đoàn thanh tra đột xuất như: Kiểm toán Nhà nước, thanh tra Bộ Y tế. Nhìn chung công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động tài chính của bệnh viện được nhà nước quan tâm và thực hiện thường xuyên nhằm hướng các hoạt động tài chính của bệnh viện thực hiện theo quy định và làm lành mạnh hoá hoạt động tài chính của bệnh viện.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Tổ Chức Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Nam - Cuba Đồng Hới
- Các Nguồn Thu Tài Chính Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới Giai Đoạn 2015-2017
- Bảng Tổng Hợp Các Khoản Chi Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới Giai Đoạn 2015-2017
- Định Hướng Quản Lý Tài Chính Tại Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới
- Quản lý tài chính tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 11
- Quản lý tài chính tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 12
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
2.4. Đánh giá chung về công tác tác quản lý tài chính tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới
2.4.1. Kết quả đạt được
Về công tác lập dự toán thu chi tài chính
Việc lập dự toán hàng năm được thực hiện đúng theo thời hạn do cơ quan quản lý cấp trên quy định, nội dung dự toán đảm bảo đầy đủ với các nội dung phát sinh tại bệnh viện, số liệu dự toán đảm bảo phù hợp, sát với số thực hiện tại bệnh viện. Chấp hành dự toán của bệnh viện phù hợp với dự toán cấp trên giao đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao, các khoản chi của đơn vị thực hiện đúng theo tiêu chuẩn, định mức Nhà nước quy định. Thủ tục, chứng từ đầy đủ theo yêu cầu của cơ quan kiểm soát chi. Hạch toán đầy đủ, kịp thời các khoản thu, chi theo quy định. Quyết toán ngân sách của bệnh viện đúng thời hạn, số liệu quyết toán chính xác, đầy đủ đảm bảo trong dự toán của đơn vị và NSNN giao.
Về thực hiện dự toán
- Về quản lý nguồn thu:
Về cơ bản, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới đã cân đối được ngân sách thu chi hằng năm của đơn vị. Việc thực hiện nghị định 16/2015/NĐ-CP đã tạo điều kiện pháp lý và khuyến khích cho bệnh viện phát triển các dịch vụ phụ trợ, tăng nguồn thu, bổ sung kinh phí hoạt động của bệnh viện.
Nguồn thu của Bệnh viện chủ yếu dựa vào hai nguồn thu chính là NSNN cấp và nguồn thu sự nghiệp. Trên thực tế, NSNN cấp hằng năm chỉ đảm bảo được một phần kinh phí hoạt động thường xuyên. Nguồn thu sự nghiệp qua các năm tăng cả số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn thu của bệnh viện. Bên cạnh đó, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới đã cố gắng, nỗ lực duy trì được cân đối thu nhập, tăng bổ sung cho các quỹ dự phòng ổn định thu nhập, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Thêm nữa, Bệnh viện đã chú trọng cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ nhằm đảm bảo kịp thời trong việc đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân, tạo được niềm tin và sự hài lòng cho người bệnh và thân nhân. Đây là một trong những ưu điểm của Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới, góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động và gia tăng nguồn thu cho đơn vị.
- Về quản lý nguồn chi:
Do được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sử dụng NSNN và các nguồn thu nên bệnh viện đã chủ động sử dụng các nguồn tài chính cho các hoạt động chuyên môn, bố trí hợp lý các khoản chi trong dự toán ngân sách được giao và trong các khoản thu, tránh được việc thừa, thiếu kinh phí giữa các nhóm mục chi.
Ngoài ra, chính sách, chế độ của cán bộ người lao động luôn đảm bảo quyền lợi, các khoản chi hội nghị, tiếp khách, chi mua sắm văn phòng phẩm, mua sắm tài sản …luôn đảm bảo tiết kiệm, từ đó đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ được giao và tăng thêm thu nhập cho cán bộ viên chức.
Công tác kiểm tra, kiểm soát chi: ngoài công việc kiểm tra, kiểm soát chi của kho bạc nhà nước tỉnh Quảng Bình, hàng năm công tác kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước tiến hành thường xuyên, bên cạnh đó công tác kiểm tra của Bộ Y tế, thanh tra liên ngành cũng tiến hành thanh kiểm tra đột xuất công tác quản lý tài chính tại bệnh viện. Theo đánh giá, về cơ bản các khoản chi tiêu của bệnh viện tương đối hiệu quả, tuân thủ các định mức, tiêu chuẩn, chế độ của Nhà nước, không có những vụ việc tiêu cực, tham ô, lãng phí lớn xảy ra.
Về công tác báo cáo quyết toán:
Công tác quyết toán ngân sách được tiến hành theo đúng quy định, hết thời gian chỉnh lý, phòng kế toán lập báo cáo quyết toán trình cấp thẩm quyền phê duyệt theo đúng quy định. Các thông tin được báo cáo thống nhất và phản ánh đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều hành, quản lý và công tác quản trị của bệnh viện.
Về công tác thanh tra, kiểm tra
Công tác thanh tra quyết toán hàng năm đã được tăng cường, Kết quả thanh tra, kiểm toán nhà nước Bệnh viện đều thực hiện tốt và đúng các quy định theo Luật ngân sách nhà nước, Nghị định 16/2015 CP-NĐ và các hướng dẫn, quy định khác về quản lý tài chính của Nhà nước, quy định của ngành và của Bệnh viện.
Công tác thanh kiểm tra nội bộ được làm theo đúng định kỳ hàng tháng, hàng quý tiến hành kiểm tra. Bệnh viện đã thành lập được Ban thanh tra nhân dân có chức năng kiểm tra các hoạt động của bệnh viện.
Bên cạnh đó, những thuận lợi của bệnh viện trong việc triển khai thực hiện yêu cầu tự chủ tài chính đó là: cơ sở vật chất - kỹ thuật được trang bị tương đối đồng bộ, có đội ngũ y bác sĩ chuyên nghiệp, có trình độ và ổn định.
2.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình quản lý nguồn thu Bệnh viện tỉnh còn một số tồn tại và vướng mắc nhất định thể hiện ở những khía cạnh:
Về nhận thức, tư tưởng: CBVC trong bệnh viện chưa thực sự hiểu và có trách nhiệm cao trong công tác tìm kiếm, khai thác nguồn thu.
Về tạo nguồn tài chính: Khi phân tích cơ cấu thu tác giả nhận thấy kinh phí NSNN có xu hướng giảm dần qua từng năm, năm 2015 là 67.168 triệu đồng giảm xuống còn 26.630 triệu đồng năm 2017, ngoài việc lập dự toán hàng năm nguồn kinh phí chi thường xuyên, Bệnh viện chưa có sự chuẩn bị cần thiết về các chương trình, dự án nên ít tranh thủ được kinh phí đầu tư của nhà nước cho cơ sở vật chất từ các chương trình mục tiêu. Nếu có nguồn kinh phí này, phần chi phí tăng cường cơ sở vật chất từ kinh phí thường xuyên có thể điều tiết cho các nhiệm vụ chuyên môn khác.
- Quản lý nguồn thu
Khi chuyển sang cơ chế tự chủ, nguồn kinh phí thường xuyên do NSNN cấp hàng năm có tỷ trọng giảm dần trong khi nguồn thu từ viện phí và BHYT trở thành nguồn thu chủ yếu của bệnh viện. Tuy nhiên, nguồn thu này chưa đảm bảo thu đúng, thu đủ; tình trạng thường xuyên đối mặt với vấn đề quá tải bệnh nhân là phổ biến, giá viện phí chỉ là một phần viện phí không bao gồm chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí hành chính…Từ đó đã gây không ít khó khăn cho bệnh viện trong việc nâng cao chất lượng KCB cũng như cải thiện đời sống cho cán bộ viên chức.
Mặc dù đây là nguồn thu chủ yếu nhưng qua báo cáo công tác quản lý nguồn thu của bệnh viện giai đoạn từ năm 2015-2017, tình hình quản lý thu viện phí, lệ phí và BHYT của bệnh viện vẫn còn hạn chế và nổi lên một số vấn đề như sau:
Thứ nhất. Thu viện phí, lệ phí khám không đủ bù đắp chi phí thực khám chữa bệnh: giá viện phí quy định dựa trên biểu giá tối đa - tối thiểu do Bộ Y tế và Bộ Tài chính quy định, mà thường giá này thấp hơn so với chi phí thực của các bệnh viện
bỏ ra. Đặc biệt đối với những bệnh nhân nặng cần phải phẫu thuật, sử dụng thuốc đắt tiền hoặc truyền máu mà các khoản viện phí thu được đều không đủ bù đắp chi phí thực đã bỏ ra.
Thứ hai. Thất thu viện phí do bệnh nhân trốn viện và do tính sai sót đơn giá: Thất thu viện phí ở Bệnh viện tỉnh hiện nay vẫn diễn ra tương đối phổ biến, có thể quy vào 2 nguyên nhân chính sau: (1) Tình trạng tính sót hoặc tính nhầm giá thuốc vẫn còn diễn ra. Trong quá trình tính toán chi phí cho bệnh nhân, đòi hỏi điều dưỡng hành chính phải lên giá chính xác và kế toán viện phí phải thật cẩn thận, tỉ mỉ, am hiểu các đơn thuốc và các giá thuốc để có thể đưa ra mức viện phí đúng; (2) Tình trạng trốn viện sau khi điều trị khỏi bệnh: Quảng Bình là một tỉnh nghèo, nhiều hộ nghèo và hộ thuộc chính sách xã hội trợ cấp và những bệnh nhân không đủ tiền chữa bệnh được đưa đến bệnh viện trong tình trạng nguy cấp đòi hỏi đội ngũ y, bác sĩ phải cấp cứu kịp thời.. nhưng sau khi điều trị tự ý trốn viện không thanh toán gây thất thu.
Việc quản lý nguồn thu từ viện phí và BHYT đòi hỏi việc xây dựng một quy trình thanh toán chặt chẽ, có sự kết hợp giữa cả khoa phòng và bộ phận viện phí để giảm bớt những tình trạng trốn viện, những tình trạng thất thu do Bệnh nhân bỏ về, hay thực hiện thu đúng thu đủ tránh thất thoát nguồn thu cho bệnh viện, để từ đó xây dựng một môi trường bệnh viện văn minh, ý thức cả cán bộ nhân viên lẫn bệnh nhân điều trị.
Bệnh viện đều có những mặt mạnh như: cơ sở vật chất - kỹ thuật được trang bị tương đối đồng bộ, có đội ngũ y bác sĩ chuyên nghiệp, có trình độ và ổn định nhưng chưa khai thác hết tiềm năng thế mạnh của mình. Nhiều bệnh nhân bệnh nặng có điều kiện tài chính không chọn loại hình khám dịch vụ theo yêu cầu của bệnh viện công mà họ chọn KCB tại các bệnh viện tư trong và ngoài tỉnh.
Một trong những khó khăn trong việc triển khai thực hiện yêu cầu tự chủ tài chính của bệnh viện: thủ tục khám chữa bệnh rườm rà, phức tạp; các y, bác sĩ không nhiệt tình với các bệnh nhân. Hiện tượng vòi vĩnh vẫn còn xảy ra; bệnh nhân chưa thực sự tin tưởng vào trình độ chuyên môn của các y bác sĩ của bệnh viện tỉnh nhà.
- Quản lý khoản chi
Đối với hoạt động dịch vụ (KSK, KCB theo yêu cầu…) chưa xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật (vật tư, hóa chất...) và đơn giá tiền lương để quản lý chặt chẽ chi phí, nội dung chi và mức chi còn chung chung sẽ làm giảm tính minh bạch trong thực hiện.
Về chính sách tiền lương và thu nhập tăng thêm: NSNN giao tự chủ còn thấp chưa bù đắp được chi phí trong khi phải sử dụng một NSNN tiết kiệm 10% chi thường xuyên để thực hiện cải cách tiền lương: giá điện, xăng dầu tăng dẫn đến các chi phí thường xuyên khác đều tăng cao. Ngoài ra, bệnh viện còn phải chi trả tiền lương cho các đối tượng biên chế tự đảm bảo, hợp đồng do vậy, khoản chênh lệch thu chi thường xuyên để lập quỹ phát triển HĐSN, chi trả thu nhập tăng thêm cũng bị giảm.
Công tác chi tiêu chưa đúng chế độ, chi vượt dự toán được duyệt, nhiều khoản chi lập dự toán chưa đầy đủ, đặc biệt trong quản lý và sửa chữa thường xuyên tài sản không đúng dự toán được duyệt, chi vượt dự toán... Chi cho hành chính đang có xu hướng tăng qua các năm đòi hỏi bệnh viện cần lên kế hoạch chi hiệu quả để hạn chế khoản chi này một cách hợp lý mà vẫn đảm bảo cho hoạt động của bệnh viện.
Về thủ tục hành chính: Thủ tục hành chính còn rườm rà trong việc xuất viện, nhập viện gây khó khăn cho bệnh nhân và người nhà, đặc biệt thủ tục đối với bệnh nhân sử dụng BHYT lại càng phức tạp khiến người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế.
2.4.3. Nguyên nhân
2.4.3.1 Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, Hệ thống văn bản pháp lý về quản lý tài chính còn thiếu đồng bộ. Hiện nay, mặc dù đã có văn bản quy định quản lý tài chính chung đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, văn bản quản lý tài chính y tế nhưng chưa thật đồng bộ, chưa phù hợp thực tế triển khai thực hiện.
Từ khi có văn bản Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính thay thế cho Nghị định 10/2002/NĐ-CP. Sự cải cách này mở rộng hơn về quyền tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp, nhưng khi bệnh viện đi vào thực hiện, thì vẫn bị ràng buộc bởi những quy định cũ. Các văn bản quy phạm pháp
luật còn chồng chéo mâu thuẫn gây khó khăn cho việc thực hiện cơ chế tự chủ. Mặt khác, thiếu những thông tư cụ thể về cách thức, phương pháp để các bệnh viện đạt tới mục tiêu tự chủ tài chính một cách hiệu quả nhất. Nghị định 16/2015/NĐ-CP là Nghị định khung nên đến nay chưa thể áp dụng thực hiện trong khi đó đến nay vẫn chưa có Nghị định hướng dẫn thuộc lĩnh vực ngành y tế nên khó khăn trong việc định hướng công tác QLTC của bệnh viện.
Thứ hai, Cơ chế quản lý tài chính cũ đã tồn tại lâu dài trong cách điều hành của người quản lý. Do đó khi chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính, chưa thích ứng ngay nên trong quá trình triển khai nhiệm vụ và sử dụng kinh phí khoán còn lúng túng, đặc biệt trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế.
Thứ ba, Tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi của Nhà nước ban hành chưa đầy đủ, rõ ràng và chậm đổi mới theo kịp sự thay đổi của tình hình phát triển kinh tế xã hội. Nhất là trong lĩnh vực chi thường xuyên và con người, các định mức chi tiêu hiện chưa tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định trong các đơn vị hành chính.
2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế và hiệu quả hoạt động của bệnh viện: Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển nên cơ sở hạ tầng của bệnh viện ngày càng xuống cấp nghiêm trọng, trang thiết bị còn thiếu đặc biệt là thiếu các trang thiết bị y tế hiện đại dẫn đến gây khó khăn cho chẩn đoán và điều trị. Vấn đề này đặt quản lý tài chính của bệnh viện trước một thách thức trong khi nguồn lực tài chính của bệnh viện thì có hạn
Thứ hai, Tình trạng ứng dụng CNTT còn rời rạc, hiện tại phòng kế toán bệnh viện hiện đang còn sử dụng song song 2 phần mềm kế toán ANNA và phần mềm quản lý bệnh viện FPT, bộ phận kế toán ngân sách một lúc phải nhập vào 2 phần mềm, 1 phần mềm để hạch toán hàng ngày và 1 phần mềm dùng để báo cáo lên kế toán tổng hợp gây khó khăn chồng chéo mỗi khi sử dụng. Một mặt tình trạng này gây lãng phí trong đầu tư xây dựng phần mềm, mặt khác gây lãng phí về thời gian lao động hao phí mà không đem lại hiệu quả tích cực cho bệnh viện.
Thứ ba, Hầu hết lãnh đạo khoa phòng là các thầy thuốc giỏi về chuyên môn nhưng chưa được đào tạo nhiều về quản lý tài chính trong cơ chế mới, tự chủ trong cơ chế thị trường, chủ yếu làm việc dựa theo kinh nghiệm vì vậy còn gặp nhiều khó khăn trong thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP tại Bệnh viện. Nhân lực tại phòng TCKT phần lớn tập trung vào việc thu viện phí và kiểm soát bệnh án điều trị nên cũng ảnh hưởng đến công việc kế toán và quản lý tài chính. Mặc dù bệnh viện có chỉnh sách cử đi đào tạo nhưng chủ yếu là cán bộ nhân viên có tuổi dẫn đến khả năng tiếp thu, cập nhật những kiến thức mới khó khăn và hạn chế.
Thứ tư, Mối quan hệ giữa bệnh viện với khách hàng: Một trong những yếu tố quyết định uy tín của bệnh viện là văn hóa bệnh viện trong đó có văn hóa ứng xử của nhân viên Bệnh viện với bệnh nhân và gia đình họ. Mặc dù Bệnh viện đã tham gia thực hiện ký cam kết về quy tắc ứng xử của Bộ Y tế nhưng hiện tại bệnh viện vẫn còn tồn tại một bộ phận nhân viên có thái độ không hay đối với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân như tỏ vẻ khó chịu, hách dịch, thiếu nhiệt tình…làm ảnh hưởng xấu tới hình ảnh bệnh viện, chưa thể hiện được việc công tác KCB là “Lương y như từ mẫu”.
Thứ năm, Quy mô khám chữa bệnh của bệnh viện về cơ bản vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Nhiều máy móc thiết bị, cơ sở vật chất còn thiếu thốn và xuống cấp, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng khám chữa bệnh cho người dân.
Nhìn chung, qua việc nghiên cứu và phân tích thực trạng cho những đánh giá rất khách quan về cơ chế tự chủ tài chính tại Bệnh viện hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới cho thấy cơ chế quản lý theo cơ chế tự chủ đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong công tác quản lý tài chính tại Bệnh viện. Tuy nhiên, cùng với kết quả đạt được là những tồn tại, hạn chế như đã phân tích ở trên, vậy để thực hiện được các mục tiêu trong quá trình đổi mới, Bệnh viện cần phải luôn phát huy những mặt tích cực và kết quả đạt được, đồng thời tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế khó khăn còn tồn tại cả cơ chế tài chính hiện nay nhằm phát huy tính tự chủ trong quản lý tài chính tại Bệnh viện.