Đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng - 7

dựng Phát Đạt và tư nhân Nguyễn Hoàng Nam làm thất thoát 35.068 triệu

đồng.


Số liệu đưa ra trên báo cáo luôn chứng tỏ đơn vị làm ăn có lãi, nhưng số liệu đó cũng chỉ được dùng để báo cáo. Thực tế đã chứng minh rằng các khoản thế chấp của khách hàng khi đem bán đấu giá đều có vấn đề. Các trường hợp

đầu tư như vậy để vay vốn thường là hàng trăm triệu đồng, có những hợp đồng con số một khoản vay tính bằng tỉ đồng. Như vậy, chỉ qua một món vay đã có thể dẫn tới mất một số tiền lớn, mức thiệt hại này là một trong những điều kiện xét đến tính nghiêm trọng của hành vi được quy định trong luật hình sự năm 1999.

Các vi phạm về tín dụng đều do cán bộ thực hiện không đúng quy định về đảm bảo nợ vay (thủ tục thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay không đúng quy định, tài sản thế chấp không đảm bảo yếu tố pháp lý, vi phạm quy định về quản lý giấy tờ thế chấp, định giá tài sản đảm bảo vay không phù hợp, áp dụng hình thức cho vay không có tài sản đảm bảo nợ vay đối với các khách hàng không đủ điều kiện, không thuộc đối tượng vay không có tài sản đảm bảo. Không thực hiện cam kết việc mua bảo hiểm đối với tài sản cầm cố thế chấp thuộc đối tượng phải mua bảo hiểm, nhận tài sản thế chấp là quyền sử dụng

đất nhưng tài sản thế chấp không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người vay, không lập hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản theo quy định, không đăng ký giao địch đảm bảo, định giá TSTC vượt mức quy định của Nhà nước

Những vi phạm xảy ra là do một cán bộ tín dụng vừa là người thẩm

định, vừa là người cho vay, mặc dù hiện nay đã có quy định tách biệt hai khâu này nhưng trên thực tế thì sai phạm cũng không hề giảm, vẫn có xu hướng tăng, năm 2005 là 792 trường hợp vi phạm thiệt hại 104.397 triệu đồng, năm 2006 có 4.596 trường hợp vi phạm với số tiền là 1.425.201 triệu đồng10.

2.2.1.2- Cho vay vượt quá giới hạn quy định:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.


10 Báo cáo tổng kết công tác Thanh tra NHNN 2005, 2006

Đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng - 7

Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, đối với TSĐB chỉ có thể cho vay tối đa 70% giá trị tài sản, song nhiều TCTD đã cho vay vượt quá 80% giá trị tài sản.

Theo quy định tại điều 79 Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản của ngành và của từng ngân hàng đều quy định mức cho vay đối với từng khách hàng đều không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, song nhiều ngân hàng với mục đích mở rộng hoạt động cho vay với hy vọng sẽ đem về một khoản lợi nhuận cao đã đi ngược lại quy chế này dẫn đến rủi ro trong hoạt

động thanh toán, có những trường hợp đã khiến cho ngân hàng đó mất hoàn toàn khả năng thanh toán buộc ngân hàng Nhà nước phải có sự can thiệp và trợ giúp.

2.2.1.3- Không kiểm soát chặt chẽ trước, trong và sau khi cho vay:


Hệ quả là cho vay sai đối tượng, khách hàng sử dụng vốn vay sai mục

đích như trường hợp vay vốn để nhập khẩu xe ô tô đã qua sử dụng, nhưng trên thực tế khách hàng đã nhập xe ô tô nguyên chiếc về thị trường Việt Nam và như vậy ngân hàng đã trở thành công cụ tiếp tay, dung túng cho hành vi buôn lậu.

Trường hợp cán bộ tín dụng nhờ người thân vay hộ tiền trót lọt cũng là do không kiểm soát chặt chẽ.

2.2.1.4- Không chuyển nợ quá hạn kịp thời, gia hạn nợ, giãn nợ sai quy

định:


Việc chuyển nợ quá hạn, hay gia hạn nợ, giãn nợ là căn cứ vào tình hình thực tế của khách hàng để lùi lại thời hạn trả nợ sau một thời gian xác định, nhưng nếu chuyển nợ quá hạn thì ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro, dẫn đến tăng chi phí, thu nhập của ngân hàng giảm, giảm lợi nhuận, lương của cán bộ bị thụt đi, báo cáo tài chính của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng khi xếp hạng chi nhánh. Vì vậy việc chuyển nợ quá hạn thường là việc làm bất đắc dĩ

đối với mỗi ngân hàng, chính vì vậy việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro của các

chi nhánh thường thấp hơn thực tế, năm 2000 là 3.530 trường hợp với số tiền 31.782 triệu đồng, năm 2006 là 1.117 trường hợp số tiền là 697.613 triệu

đồng11.



lƯ phÝ:

2.2.1.5-Chiếm dụng vốn tín dụng của ngân hàng, tự đặt mức thu phí và


Do thường xuyên tiếp xúc với các khoản tiền lớn nên đã khiến nhiều

cán bộ ngân hàng nảy lòng tham, lợi dụng tiền vốn của ngân hàng để tiêu dùng cá nhân, đầu tư kinh doanh, chơi số đề dẫn đến mất khả năng hoàn trả. Ngay từ năm 2000 đã xuất hiện 534 trường hợp tổ trưởng vay vốn thu nợ không nộp ngân hàng với số tiền 347 triệu đồng.

Điển hình là trường hợp tại Chi nhánh NHNNo, cán bộ thu lãi không nộp số tiền 100.949.202 đồng, đến ngày 20/5/2004 đã thu hồi đủ, ngân hàng

đã xử lý: sa thải 01 cán bộ kế toán, chuyển công tác khác có mức lưong thấp hơn 01 người, kéo dài thời gian nâng lương Trưởng phòng Kế toán, khiển trách toàn bộ Ban giám đốc chi nhánh12.

Tại một số chi nhánh các cán bộ còn tự ý đặt ra mức thu phí từ 1.000đ- 2.000đ cho một khỏan vay.

2.2.1.6-Về bảo lãnh:


Bảo lãnh là văn bản cam kết của ngân hàng sẽ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thanh toán cho bên thứ ba khi khách hàng vay không đủ khả năng thực hiện.

Thực chất bảo lãnh được hình thành từ hợp đồng, nên các yếu tố trên bảo lãnh được xây dựng từ hợp đồng, nhưng thực tế vẫn tồn tại bảo lãnh không có hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh không đầy đủ các yếu tố pháp lý, cá biệt có ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ đã quy định theo hợp đồng bảo lãnh đã ký kết số tiền 20.000.000đ.

Không ghi các yếu tố như các khỏan phí trên hợp đồng bảo lãnh


11Báo cáo tổng kết công tác Thanh tra NHNN 2005, 200

12 Báo cáo Thanh tra Ngân hàng Nhà nước năm 2004.

2.3-Các sai phạm khác: 2.3.1- Thu chi tài chính:‌

Hạch toán sai tính chất tài khoản, hạch toán không đầy đủ: 670 trường hợp vi phạm, số tiền 7.191,5 triệu đồng, chi sai nguồn hoặc thiếu các chứng từ hợp lệ:173 trường hợp số tiền 32.788,9 triệu đồng, chi sai chế độ quy định: 75 trường hợp với số tiền 5.439,8 triệu đồng13.

Theo quy định mỗi TCTD không được chi mua TSCĐ quá 50% vốn tự có, nhưng hàng năm cóTCTD đều chi mua sắm tài sản, trang thiết bị, sửa chữa trụ sở vượt quá con số này. Nhưng các TCTD vi phạm thường điều chỉnh vào tài khoản khác với chứng từ được hợp pháp hóa.

2.3.2-Về kinh doanh ngoại tệ và quản lý ngoại hối:


Theo báo cáo của Thanh tra NHNN tổng kết tình hình tội phạm kinh tế và rủi ro trong hoạt động ngân hàng 05 năm từ năm 2001-2005 thì rủi ro, tội phạm trong kinh doanh ngoại hối 9vụ, số tiền 171.510 triệu đồng, đã xử lý thu hồi 2 vụ, số tiền 315 triệu đồng. Số tiền thu hồi được không bằng ba số cuối của khoản tiền thất thoát.

Các sai phạm phổ biến: không hạch toán ngoại bảng giá trị cam kết quyền chọn tiền tệ, ký giao dịch quyền chọn vượt thẩm quyền số tiền 31.35.720USD, mở tài khoản thanh toán ngoại tệ vượt quá thời hạn ghi trên thẻ tạm trú của người nước ngoài lưu trú tại Việt Nam14.

Không thực hiện nghĩa vụ đối chiếu, giám sát nghiệp vụ chuyển tiền ra nước ngoài đối với Công ty TNHH Tiger Drylac dẫn đến chuyển vượt số tiền 1.463,313USD15.

Điển hình là vụ kinh doanh trái phép ngoại tệ tại NHCT Chi nhánh Hải Phòng: từ năm 2003 đến khi bị bắt Nguyễn Quỳnh Vân- nguyên Phó phòng Tài trợ thương mại đã thực hiện 850 giao dịch với 03 ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam với tổng số tiền hơn 3,6 tỷ đồng gây thiệt hại 5,4 triệu USD. Nguyễn Quỳnh Vân đã tự ý thực hiện toàn bộ quá trình kinh doanh


13 Báo cáo tổng kết công tác Thanh tra NHNN 2006 14 Báo cáo tổng kết công tác Thanh tra NHNN 2006 15 Báo cáo tổng kết công tác Thanh tra NHNN 2006

ngoại tệ liên ngân hàng. Để thực hiện việc giao dịch này, Vân đã trực tiếp giao dịch, thống nhất tỷ giá mua bán và giá trị hợp đồng qua điện thoại. Sau khi thống nhất, đối tác sẽ gửi hợp đồng bằng tiếng Anh qua fax, Vân ký nháy rồi trình Giám đốc ký và chính Vân là người lập lệnh chuyển tiền và chứng từ chuyển tiền với tư cách là Kiểm soát viên. Việc thanh toán này có vẻ bề ngoài hoàn toàn hợp pháp (chuyển tiền theo giá trị hợp đồng, địa chỉ dòng tiền đi và

đến rõ ràng), nhưng việc thanh toán các hợp đồng này chủ yếu là thanh toán giá trị hợp đồng bằng hình thức bù trừ lãi lỗ rồi chuyển chênh lệch tỉ giá giữa các loại ngoại tệ đưa vào giao dịch mà không chuyển tiền gốc khi giao dịch.

Do sơ hở trong quản lý, điều hành đối với sở quản lý, kinh doanh vốn và ngoại tệ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam đã để lỗ khoảng bốn trăm tỷ đồng sau 9 tháng hoạt động của năm 2004.

Liên quan đến tội phạm ngân hàng có yếu tố nước ngoài, mô hình được khách hàng áp dụng là đề nghị phát hành Giấy biên nhận giữ tài sản “Safekeeping receipt/ Bank Custodial Safekeeping Receipt” để có thể dùng Giấy này thế chấp vay vốn tại ngân hàng khác, chuyển nhượng quyền cho bên thứ ba hoặc lừa đảo thông qua hành vi sửa chữa tên và nội dung Giấy biên nhận.

Hình thức của giao dịch này là khách hàng ký hợp đồng vay vốn với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện dự án (có dự án đã được cấp có thẩm quyền tại địa phương phê duyệt và đã được Ngân hàng Nhà nước xác nhận về việc đã đăng ký khoản vay) và yêu cầu ngân hàng phát hành Giấy biên nhận giữ tài sản (tài sản được hiểu là dự án hình thành trong tương lai). Hoặc khách hàng nước ngoài chuyển tài sản như đá quý, kim loại quý, chứng khoán . . . cho ngân hàng và đề nghị ngân hàng phát hành Giấy biên nhận giữ tài sản.

Khách hàng đề nghị ngân hàng phát hành ký hậu hối phiếu liên quan tới khoản vay vốn nước ngoài: Tổ chức/ cá nhân nước ngoài cam kết sẽ ký hợp

đồng cho khách hàng vay với giá trị lớn, chia nhỏ thành nhiều hối phiếu trả chậm. Khách hàng thuyết phục chi nhánh chỉ ký hậu trên các hối phiếu mà không cần phát hành bất cứ một Cam kết bảo lãnh nào.

Nhưng thực tế các trường hợp đã xảy ra tại một số chi nhánh NHTM thì giá trị các khoản vay hoặc cho vay đối với tài sản gửi giữ thường rất lớn từ 25 triệu đến 140 triệu USD và cao hơn nhiều so với chi phí tạm tính của dự án cần vay vốn. Đối với các nước phát triển, hình thức Giấy biên nhận được xem như một cam kết bảo lãnh, có thời gian dài, có thể chuyển nhượng các quyền liên quan không những tới tài sản do ngân hàng giữ mà còn liên quan tới Giấy biên nhận, có dẫn chiếu áp dụng luật là quy tắc của ICC về tín dụng chứng từ. Như vậy, ngay khi ngân hàng ký phát Giấy biên nhận thì đã hình thành một cam kết bảo lãnh thanh toán đối với khách hàng. Ngân hàng phải chịu trách nhiệm thanh toán đối với các khoản vay và tài sản gửi giữ, đồng thời chịu mọi trách nhiệm thanh toán đối với Giấy biên nhận khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn.

2.3.3-Về an toàn kho quỹ:


Theo tài liệu hội nghị Tổng kết công tác phòng, chống tội phạm và rủi ro trong hoạt động ngân hàng của NHNN năm 2007 thì rủi ro, tội phạm trong

điều chuyển tiền và quản lý kho quỹ là13 vụ, số tiền là 106.058 triệu đồng, đã xử lý thu hồi 9 vụ, số tiền 6.694 triệu đồng.

Dù có quy định riêng về bảo mật, khoá kho do BGĐ, Phòng kế toán và Phòng kho quỹ cùng quản lý, khi mở kho phải có đủ ba bộ phận, nhưng ở nhiều nơi do bất cẩn vẫn để xảy ra các vụ mất tài liệu và tiền tại kho.

Ngoài ra do không tuân thủ các quy định như giữa ngày và cuối ngày phải nộp tiền về kho đã xẩy ra những vụ kẻ trộm hoặc trong ngoài thoả thuận với nhau để trộm tiền ngân hàng.

2.3.4-Sử dụng công nghệ cao:


Thời gian qua ngành ngân hàng thực hiện hiện đại hoá trong toàn ngành, một số đối tượng đã lợi dụng công nghệ tin học tìm mọi cách rút tiền. Một số thủ đoạn phổ biến: một số giao dịch viên của ngân hàng đã vào mạng trái phép, chuyển tiền từ tài khoản của khách hàng sang tài khoản của mình

hoặc tài khoản “ma” và dùng thẻ rút tiền từ máy ATM, các đối tượng là việt kiều, người nước ngoài khi vào Việt Nam đã dùng thẻ thanh toán hết thời hạn, nợ chưa thanh toán, thẻ cấm lưu hành, thẻ giả để rút tiền tại các máy ATM, lợi dụng sự không thống nhất giữa các hệ thống máy tính của ngân hàng phát hành và ngân hàng chấp nhận thanh toán thẻ để rút tiền từ máy ATM, đối tượng là người Việt Nam hoặc người nước ngoài có trình độ cao về tin học, lấy cắp dữ liệu, đột nhập vào mạng của ngân hàng, tạo ra các lệnh chuyển tiền từ ngân hàng này vào các địa chỉ ở ngân hàng khác được tính toán từ trước để từ

đó chiếm đoạt tiền của ngân hàng.


Một số vụ điển hình:

Ngô Thanh Lam là nhân viên Phòng giao dịch NHNT Việt Nam đã dùng thủ đoạn tinh vi: lấy cắp mã kiểm soát viên để duyệt chứng từ điện tử, giả mạo chữ ký kiểm soát viên hoặc lợi dụng lúc kiểm soát viên nhiều việc để trình duyệt trên chứng từ kế toán; lừa thanh toán viên khác để thực hiện một số bút toán điều chỉnh số kết dư trên sổ sách kế toán của Lam để lấy tiền của ngân hàng với số tiền lớn. Vụ việc đã được chuyển cơ quan bảo vệ phát luật thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm khắc phục hậu quả, thu hồi tài sản, hạn chế tổn thất. Đến tháng 10/2004 đã thu hồi được 2,1 tỷ đồng và 155.000 USD.

Khách hàng Võ Thị ót, ngày 26/02/2004, có tài khoản tiền gửi tại NHNTVN (VCB) có số dư 100.280.199 đồng, đến ngày 27/02/2004, bà ót dùng Uỷ nhiệm chi chuyển 100 triệu đồng cho Nguyễn Thị Nga có tài khoản tại một chi nhánh của VCB. Tài khoản này sau đó bị rút hết tiền qua các máy ATM của hệ thống VCB TP. Hồ Chí Minh (trong quá trình điều tra thấy địa chỉ và số CMND của chủ tài khoản Nguyễn Thị Nga là không có thật). Bà ót khiếu nại, cho rằng bà không rút số tiền 100 triệu đồng và yêu cầu VCB trả lại số tiền này. Vụ việc đã chuyển sang Cảnh sát điều tra Công an TP. Bước đầu

đã làm rõ: vụ việc liên quan đến Nguyễn Thị Bé Hạnh là giao dịch viên Phòng

kinh doanh dịch vụ VCB và Trần Ngọc Biên, nhân viên VCB Chi nhánh khác,

đến ngày 12/06/2004 người nhà của Nguyễn Thị Bé Hạnh đẫ nộp 100 triệu

đồng cho Chi nhánh NHNT để khắc phục hậu quả sai phạm của Nguyễn Thị Bé Hạnh. Hiện nay, Cơ quan CSĐT vẫn chưa có kết luận.

2.4- Tính chất của các sai phạm trong hoạt động ngân hàng


Ngân hàng với lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm đã tích luỹ trong nó những quy tắc mang tính chuẩn mực được quốc tế hoá rộng rãi cùng quy trình chứng từ mang tính hệ thống chặt chẽ giữa chứng từ kế toán và tín dụng luôn có sự khớp đúng, việc lưu giữ sổ sách, hồ sơ có vai trò quan trọng như giữ tiền, qua đó thấy rằng việc thực hiện hành vi phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng đòi hỏi sự tinh vi, nhạy bén, thông thạo nghiệp vụ, với sự tính toán cẩn trọng ở mức độ cao, việc giả mạo các chứng từ hoặc tạo cho các chứng từ có bề ngoài hoàn hảo đã đạt tới mức hoàn thiện, ngoài ra việc ban hành các văn bản trong hoạt động ngân hàng về quy trình nghiệp vụ có tính kế thừa của các định chế tài chính lớn nên thường có tính chặt chẽ vì vậy sai phạm được hình thành chủ yếu là do chính cán bộ thực hiện dưới hình thức cố ý, nhiều vụ việc có tổ chức và mang tính đồng phạm rõ nét.

Từ thực tế một vụ việc 03 cán bộ vi phạm tại một chi nhánh NHNNo ở

Điện Biên ta sẽ thấy rõ điều này:


-Tham ô tiền vay của khách:


Khách hàng đến ngân hàng trả nợ, CBTD (bà Dũng) thông đồng với kế toán (bà Nguyệt) và thủ quỹ (bà Vinh) thu không vào sổ sách, đồng thời:

+Nhờ người thân họ hàng vay hộ, vay ké


+Khách hàng gửi CBTD nộp hộ nhưng không nộp


-Tham ô tiền gửi của khách hàng:


Thu tiền gửi của khách hàng không nộp hoặc nộp ít hơn số thực tế. Khi khách hàng đến ngân hàng gửi tiền: bà Nguyệt, bà Vinh làm đầy đủ thủ tục gửi tiền theo quy định, sau đó cả 2 bà thông đồng hủy chứng từ cũ lập lại

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 07/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí