thương vụ hay không?. Trong quá trình thực hiên giao dịch đàm phán với ban lãnh đạo tổ chức mục tiêu, nắm rõ yếu tố văn hoá, tránh mọi hiểu nhầm trong giao tiếp, ứng xử là một bước tiến dài để đi đến một thương vụ đàm phán thành công. Khi thương cụ M&A đã hoàn thành thì văn hoá lại có vai trò quan trọng quyết định tương lai của tổ chức tài chính mới, đó chính là văn hoá doanh nghiệp. Một sự hiểu biết sâu sắc về văn hoá xã hội bản địa sẽ giúp Ban lãnh đạo mới đưa ra chiến lược hoà hợp hai nền văn hoá doanh nghiệp nhằm tạo một khối đoàn kết vững mạnh đảm bảo cho tổ chức tài chính mới tồn tại và phát triển [61].
2.4.1.4. Môi trường kỹ thuật, công nghệ tài chính ngân hàng
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, vấn đề công nghệ hiên đại trở thành vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp, công ty sản xuất kinh doanh nói chung và nói riêng với các tổ chức tài chính. Sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin trong những năm gần đây đã giúp lĩnh vực tài chính đổi mới được cơ cấu quản lý tổ chức, phát triển được các dòng sản phẩm dịch vụ tiện ích như ATM, thanh toán trực tuyến, Mobile banking và Internet banking, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng đảm bảo an toàn tối đa cho người gửi tiền.
Trong trường hợp, doanh nghiệp tài chính dự đoán trong những năm tới làn sóng công nghệ sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa điều này rất có lợi cho hoạt động sáp nhập thâu tóm ngân hàng. Sau sáp nhập, tổ chức mới sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn do dữ liệu hai hệ thống không ăn khớp gây nên tình trạng mất mát, sai lệch dữ liệu. Ngoài ra khi mạng lưới kinh doanh mở rộng thì việc quản lý cũng khó khăn hơn nhiều đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn để nâng cấp, đổi mới hệ thống. Tuy nhiên, đầu tư cho công nghệ ngân hàng thường tốn chi phí, bên cạnh đó, sự hạn chế về nguồn lực và chi phí thực sự là bài toán khó đối với các tổ chức tài chính, đặc biệt là các doanh nghiệp tài chính nhỏ. Do vậy, để giải quyết bài toán này, các tổ chức tài chính nhỏ thường xem xét, áp dụng giải pháp tài chính M&A, nhờ vậy có thể kết hợp với những tổ chức lớn có kinh nghiệm hơn, nguồn lực dồi dào hơn từ đó nhận chuyển giao công nghệ mới, tiết giảm chi phí, cũng như phân bổ nguồn lực hợp lý trên cơ sở dữ liệu và khách hàng hiện tại [34].
2.4.2. Nhân tố thuộc doanh nghiệp
2.4.2.1. Năng lực tài chính
Tình hình tài chính hay năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng doanh nghiệp sẽ tiến hành các thương vụ mua bán và sáp nhập. Hay nói cách khác, năng lực tài chính của doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng tới sự phát triển của các thương vụ mua bán. Năng lực tài chính của doanh nghiệp có thể được xem xét trên một số chỉ tiêu tài chính như doanh thu, lợi nhuận, quy mô vốn của doanh nghiệp. Những yếu tố này sẽ những tác động tích cực tới sự phát triển của hoạt động mua bán và sáp nhập ở cả 2 góc độ là với doanh nghiệp có khả năng tài chính yếu và doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh.
Đối với doanh nghiệp mạnh có tiềm lực tài chính như doanh thu, lợi nhuận cao, đồng thời quy mô vốn lớn, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng thực hiện các thương vụ mua lại, thâu tóm doanh nghiệp yếu hơn để tăng thị phần, chiếm lĩnh và tăng uy thế trên thị trường ở một khu vực, hay vùng lãnh thổ. Điều này sẽ góp phần tăng lên số lượng các thương vụ mua bán và sáp nhập. Bên cạnh đó, đối với các doanh nghiệp có năng lực tài chính yếu, họ cũng mong muốn nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tiếp thu nguồn công nghệ, trình độ quản lý bằng việc kết hợp với những đối tác mạnh hơn, do vậy M&A cũng là một công cụ tài chính mà doanh nghiệp mong muốn sử dụng. Như vậy, đối với các doanh nghiệp nhỏ, với tiềm lực tài chính yếu, doanh thu, lợi nhuận thấp, nguồn vốn yếu kém khi sáp nhập, bán cổ phần cho các đối tác cũng sẽ làm gia tăng các thương vụ mua bán và sáp nhập [92].
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Trình Thực Hiện Mua Bán Và Sáp Nhập [31], [32], [53]
- Phát Triển Hoạt Động Mua Bán Và Sáp Nhập Trong Lĩnh Vực Tài Chính Ngân Hàng
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Sự Phát Triển Của Hoạt Động Mua Bán Và Sáp Nhập Trong Lĩnh Vực Tài Chính Ngân Hàng
- Thực Trạng Hoạt Động Mua Bán Và Sáp Nhập Trong Lĩnh Vực Tài Chính Ngân Hàng Việt Nam
- Một Số Thương Vụ Mua Bán Và Sáp Nhập Trong Ngành Ngân Hàng Việt Nam Giai Đoạn 2007 Đến Nay
- Đánh Giá Thực Trạng Phát Triển Hoạt Động Mua Bán Và Sáp Nhập Trong Lĩnh Vực Tài Chính Ngân Hàng Việt Nam
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
2.4.2.2. Năng lực cạnh tranh
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo nên một môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế của một quốc gia. Sự tham gia của nhiều các tổ chức tài chính quốc tế với tiềm lực tài chính mạnh sẽ đặt các doanh nghiệp tại một quốc gia trước áp lực cạnh tranh trong môi trường kinh doanh toàn cầu. Do vậy, những doanh nghiệp yếu kém sẽ buộc phải sáp nhập lại với nhau hoặc tìm kiếm đối tác chiến lược để bán cổ phần nhằm hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh trước các doanh nghiệp tài chính lớn. [49].
Bên cạnh đó, hoạt động mua bán và sáp nhập cũng hỗ trợ hiệu quả cho quá trình sàng lọc thị trường, những doanh nghiệp mạnh mới có khả năng tồn tại trên thị trường, những doanh nghiệp yếu kém sẽ buộc phải sáp nhập lại với nhau hoặc bị mua
lại bởi những doanh nghiệp mạnh hơn. Kết quả của quá trình này làm cho số lượng các tổ chức tài chính trên thị trường giảm đi, điều này cũng góp phần tăng thị phần của các doanh nghiệp còn lại trên thị trường. Như vậy, hoạt động mua bán và sáp nhập được cho là một trong những công cụ tài chính để loại bỏ những tổ chức yếu kém và giữ lại những tổ chức mạnh, có năng lực cạnh tranh, nâng cao tính bền vững của thị trường tài chính và nền kinh tế của một quốc gia.
2.4.2.3. Năng lực quản trị rủi ro
Nhiều tổ chức tài chính có năng lực quản trị rủi ro yếu, không đáp ứng các tiêu chuẩn việc quản trị rủi ro hệ thống theo các tiêu chuẩn quốc tế về đảm bảo an toàn vốn (Basel II), rủi ro về các khoản nợ khó đòi và nợ có khả năng mất vốn. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh, mở cửa thị trường. Khi các tổ chức tài chính cân nhắc hoạt động mua bán và sáp nhập sẽ tạo cơ hội hỗ trợ tổ chức rủi ro, đặc biệt là rủi ro liên quan tới hoạt động tín dụng do tình trạng nợ quá hạn gây nên. Ngoài ra, hoạt động này còn hỗ trợ doanh nghiệp tránh được tình trạng tổ chức phải tuyên bố phá sản do không có khả năng thu hồi các khoản nợ khó đòi. Bởi, thông qua M&A, các tổ chức tài chính lớn mua lại các tổ chức tài chính đang gặp vấn đề và hỗ trợ các tổ chức tài chính này giải quyết các khó khăn như vấn đề thanh khoản, các khoản nợ quá hạn…từ đó tổ chức đang gặp khó khăn sẽ tránh được rủi ro phải tuyên bố phá sản, đóng cửa doanh nghiệp. Một tổ chức tài chính với năng lực quản trị rủi ro yếu kém, phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn trong việc điều hành và quản trị nguồn vốn, nguồn lực của doanh nghiệp sẽ có xu hướng quan tâm tới hoạt động mua bán và sáp nhập, coi đây là một giải pháp hữu ích cho việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Đây cũng chính là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của các thương vụ mua bán và sáp nhập trên thị trường [45].
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố tác động tới sự phát triển của hoạt động mua bán và sáp nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, có những nhân tố xuất phát từ nội tại của tổ chức, có những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Tuy nhiên, tất cả nhân tố này góp phần đẩy nhanh sự phát triển và tăng nhanh của các thương vụ M&A trên thị trường tài chính.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
3.1. Khái quát về lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển [106], [110]
Sự phát triển hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, thị trường chứng khoán Việt Nam và thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong đó hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ đạo và bắt đầu hình thành rõ nét từ năm 1858, năm Việt Nam trở thành nước phong kiến nửa thuộc địa của Pháp.
3.1.1.1. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Xét căn cứ đặc thù lịch sử, quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể chia ra thành bốn giai đoạn gồm thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ miền Bắc Việt Nam 1954-1975, thời kỳ miền Nam Việt Nam 1954-1975 và thời kỳ từ sau thống nhất đất nước 1975 đến nay.
* Hệ thống ngân hàng Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
Trước khi người Pháp đặt chân đến Việt Nam năm 1858, Việt Nam chưa có tổ chức ngân hàng và tín dụng. Vào cuối thế kỷ thứ 19, khi nền đô hộ đã được thiết lập trên toàn cõi Đông Dương, Việt Nam trở thành một thị trường độc chiếm của Pháp. Nhiều hoạt động kinh tế của người Pháp ở Đông Dương bành trướng mạnh nên chính phủ buộc phải thành lập các ngân hàng để hỗ trợ các hoạt động đó. Lúc đầu có 2 ngân hàng có trụ sở tại Pháp và các chi nhánh trên toàn Đông Dương là Ngân hàng Đông Dương (Banque de l'Indochine) thành lập từ 1873 và Pháp-Hoa Ngân hàng (Banque Franco-Chinoise) được thành lập với mục đích hỗ trợ các giao dịch thương mại giữa Pháp, Đông Dương và Trung Hoa cũng như với một vài nước khác ở Á Đông như Nhật, Thái Lan. Hai ngân hàng này ngoài độc quyền phát hành tiền tệ như một Ngân hàng Trung ương, nó còn là một ngân hàng kinh doanh thương mại, cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế của người Pháp ở Đông Dương. Phải tới năm 1927, một số tư bản người Việt Nam mới thành lập ngân hàng đầu tiên của Việt Nam lấy tên là An Nam ngân hàng (sau đổi tên là Việt Nam ngân hàng) nhằm hỗ trợ vốn cho các hoạt động nông nghiệp. Cho đến năm 1954, người Việt có ngân hàng thứ hai là Việt Nam
công thương ngân hàng.
* Hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Bắc giai đoạn 1954 đến 1975
Ngày 06/05/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam với nhiệm vụ chính như phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ, và thực hiện chính sách tín dụng nhằm phát triển hoạt động sản xuất. Ngày 21/01/1960, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam ở Miền Bắc có thể được chia làm hai thời kỳ từ 1951 đến 1954 và thời kỳ từ 1955 đến 1975. Trong thời kỳ đầu, ngân hàng quốc gia Việt Nam hoạt động độc lập trong hệ thống tài chính với chức năng như phát hành tiền tệ, thu hồi tiền tài chính, quản lý Kho bạc Nhà nước nhằm tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách và phát triển tín dụng ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá. Đến thời kỳ tiếp theo 1955 đến 1975, Ngân hàng Quốc gia với nhiệm vụ củng cố thị trường tiền tệ, ổn định tiền tệ nhằm góp phần bình ổn vật giá, tạo thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
* Hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Nam giai đoạn 1954 đến 1975
Sau Hiệp định Geneve, chính phủ Pháp ký một loạt hiệp định với Nam Việt Nam, Campuchia và Lào, chính thức phá bỏ tình trạng hợp nhất tiền tệ và quan thuế giữa ba nước Đông Dương, khẳng định nguyên tắc mỗi quốc gia được quyền tự do phát hành và kiểm soát tiền tệ. Từ đó, cùng với chủ quyền về chính trị, người Việt Nam bắt đầu được làm chủ về hoạt động ngân hàng và phát triển trên qui mô nhà nước. Sự phát triển của ngành ngân hàng miền Nam Việt Nam giai đoạn này có thể được chia thành 2 thời kỳ từ 1954 đến 1964 và từ 1965 đến 1975. Thời kỳ 1954 đến 1964, người dân vẫn tiếp tục sử dụng các ngân hàng của người Pháp, Anh, Hong Kong, Đài Loan có chi nhánh tại Việt Nam. Thời kỳ từ 1965 đến 1975 là giai đoạn chuyển biến của hoạt động ngân hàng Việt Nam, tạo tiền đề và điều kiện cho một thời kỳ phát triển rầm rộ từ năm 1965 đến năm 1972. Trong 7 năm đầu của thời kỳ này, 18 ngân hàng mới được thành lập, nâng tổng số lên đến 31 ngân hàng với 178 chi nhánh ở các tỉnh vào năm 1972. Đến thời kỳ trước 04/1975, hệ thống ngân hàng ở Miền Nam gồm 1 ngân hàng trung ương, 32 ngân hàng thương mại với 180 chi nhánh, 2 ngân hàng phát triển và 60 ngân hàng nông thôn.
* Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay
Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay có
thể chia thành có thể chia thành 3 thời kỳ từ 1975 đến 1985, 1986 đến 1990, và 1991 đến nay. Thời kỳ 1975-1985, sau 1975, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền Nam được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước. Thời kỳ 1986 -1990 là giai đoạn manh nha của các cải cách bước đầu, làm tiền đề cho việc hình thành và phát triển một hệ thống Ngân hàng Việt Nam một cách căn bản và toàn diện hơn.
Với những yêu cầu về đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế Hệ thống tài chính Việt Nam hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp. Trong đó, cấp 1 là Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng. Và cấp 2 là các ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện như ngân hàng cổ phần, liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, Quỹ tín dụng nhân dân và công ty tài chính.
Thời kỳ 1991 đến nay là giai đoạn hệ thống ngân hàng Việt Nam có rất nhiều chuyển biến dần theo hướng một hệ thống ngân hàng hai cấp hiện đại. Luật NHNN 2010 đã có một số thay đổi quan trọng so với Luật NHNN 1997, làm rõ hơn địa vị pháp lý của NHNN, đồng thời xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của NHNN với tư cách là ngân hàng trung ương, thực hiện các chức năng về quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một ngân hàng trung ương là thực thi chính sách tiền tệ và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng.
3.1.1.2. Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng thị trường chứng khoán ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK. Kế đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ
thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành lập cơ quan quản lý thị trường chứng khoán trước khi thị trường ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của TTCK sau đó hơn 3 năm.
Kể từ khi thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước và có kế hoạch thành lập ngay trung tâm giao dịch chứng khoán. Nhưng do quá trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết bị kéo dài và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực năm 1997, mặc dù được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, nhưng sau 4 năm, ngày 28/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh chính thức được đưa vào hoạt động. Đến hết năm 2013, tức sau hơn 13 năm hoạt động, trên Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã có gần 350 số mã chứng khoán niêm yết, trong đó hơn 300 mã cổ phiếu (chiếm 87,32%), gần 40 mã trái phiếu (11,24%), và còn lại là chứng chỉ quỹ. Giá trị niêm yết trên Sở GDCK TP.HCM đạt khoảng 274.863 tỷ đồng, trong khi giá trị vốn hóa đạt hơn 678.403 tỷ đồng.
Ngày 08/03/2005, Trung tâm GDCK Hà Nội (từ năm 2009 chuyển đổi thành Sở GDCK Hà Nội) chính thức khai trương và đi vào hoạt động. Đến nay, TTGDCK Hà Nội chịu trách nhiệm tổ chức giao dịch chứng khoán sơ cấp với hai hoạt động chính là đấu giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu và giao dịch chứng khoán thứ cấp với 3 thị trường gồm thị trường chứng khoán niêm yết, thị trường giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết (UpCoM) và thị trường giao dịch trái phiếu chính phủ. Sau hơn 8 năm hoạt động, tính đến cuối 2013, tổng số công ty niêm yết tại Sở GDCK Hà Nội là 396 công ty với tổng khối lượng niêm yết đạt 8,55 tỷ cổ phiếu, tương ứng với
85.536 tỷ đồng giá trị niêm yết theo mệnh giá. Về thị trường trái phiếu, tổng quy mô niêm yết của thị trường hơn 384,4 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là trái phiếu chính phủ.
3.1.1.3. Quá trình phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam
Hiện không có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác ngành bảo hiểm Việt Nam ra đời từ khi nào. Tuy nhiên, có thể lấy mốc năm 1880, khi các Hội bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ bắt đầu nhắc đến khu vực Đông Dương. Năm 1926, Chi nhánh đầu tiên tại Việt Nam là của Công ty Franco- Asietique, năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty. Từ Hệ thống tài chính Việt Nam năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều
Công ty bảo hiểm trong nước và ngoại quốc.
Những năm gần đây, thị trường bảo hiểm (BH) Việt Nam luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan với các sản phẩm BH ngày càng đa dạng, chất lượng dịch vụ được nâng cao rõ rệt. Năm 2013, ngành bảo hiểm có tổng cộng 59 DN tham gia thị trường (29 DNBH phi nhân thọ, 16 DNBH nhân thọ, 12 DN môi giới BH, 2 DN tái BH). Trong năm 2013, tổng doanh thu phí BH toàn thị trường đạt trên 47 nghìn tỷ đồng, tăng 14,1% so với năm 2012. Tổng số tiền thực bồi thường và trả tiền BH là 18,8 nghìn tỷ đồng. Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH trong năm 2013 lên tới trên 105 nghìn tỷ đồng. Các cơ quan quản lý Nhà nước đã từng bước hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh doanh BH theo hướng phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, hướng tới các chuẩn mực quốc tế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh cho các DNBH như ban hành Nghị định 98/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh BH, Nghị định 214/2013/NĐ-CP quy định giảm tỷ lệ đóng góp vào Quỹ BH xe cơ giới, Thông tư 115/2013/TT-BTC quy định hướng dẫn triển khai BH hưu trí và Quỹ hưu trí tự nguyện, Thông tư 101/2013/TT- BTC quy định về quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ người được BH... đã góp phần đưa những chính sách về BH đi vào thực tế. Bên cạnh đó bản thân các DNBH cũng tập trung củng cố và tăng cường mức độ an toàn tài chính để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, đẩy mạnh khai thác tại các mảng thị trường tiềm năng.
3.1.2. Lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam thời gian qua [108]
Trong thời gian qua, nhờ chính sách nới lỏng tài chính của Chính phủ, lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam đã tăng trưởng mạnh kể cả về số lượng và quy mô tài sản. Tính tới ngày 31/12/2013, Việt Nam có 4 ngân hàng thương mại Nhà nước đã cổ phần hóa và Nhà nước nắm cổ phần chi phối, 1 ngân hàng thương mại Nhà nước là Agribank, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 1 ngân hàng phát triển Việt Nam, 1 ngân hàng hợp tác xã, 34 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài với tổng vốn điều lệ toàn hệ thống ngân hàng là 225.605 tỷ VND. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán có 95 công ty với tổng vốn điều lệ là 36.325 tỷ đồng, thị trường bảo hiểm với 59 công ty với tổng vốn điều lệ 32.484 tỷ đồng, như vậy, tổng quy mô toàn hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam khoảng 294.414 tỷ. Tuy nhiên trong giai đoạn vừa qua, thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như tính thanh