Đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng - 13

Chương 3

Một số giải pháp và kiến nghị phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng

3.1- Các nguyên tắc trong đấu tranh phòng chống tội phạm


Tội phạm là các hành vi gây tác động tiêu cực tới xã hội, việc đấu tranh phòng chống các biểu hiện tội phạm, các hành vi tội phạm là vô cùng quan trọng và cần thiết, nhằm hạn chế tối đa sự phát sinh, phát triển của tội phạm. Tuy nhiên, trong tổ chức đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân thủ các nguyên tắc nhằm bảo đảm cho cuộc đấu tranh đi đúng mục tiêu, nhiệm vụ chính trị và bảo đảm các yêu cầu pháp luật, nghiệp vụ; tuân thủ nguyên tắc còn nhằm bảo đảm cho hệ thống phát huy hiệu quả cao nhất theo hướng thực hiện mục tiêu.

Vì vậy, cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân thủ những nguyên tắc của chính sách hình sự, của hoạt động thực tiễn pháp luật nói chung và những nguyên tắc của các ngành luật khác.

Cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm ngân hàng nói riêng phải tuân thủ nguyên tắc:

Phục tùng lợi ích giai cấp của Đảng và Nhà nước. Tuân thủ nghiêm chỉnh pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa

Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Trách nhiệm hình sự trên cơ sở lỗi.

Mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kiên quyết, nghiêm minh đúng pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

3.2- Những giải pháp nhằm phòng chống tội phạm ngân hàng.

Xuất phát từ quan điểm phòng chống tội phạm ngân hàng không chỉ là trách nhiệm riêng của ngân hàng mà là của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đòi hỏi có sự phối hợp từ nhiều ban ngành,

Đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng - 13

đoàn thể cũng như sự hợp tác giữa ngân hàng với các cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra, công tác phòng chống tội phạm cần sự chỉ đạo định hướng của Chính phủ và hợp tác quốc tế với quan điểm chủ đạo phòng hơn chống và không nơi nào phòng ngừa tội phạm có hiệu quả hơn là chính nơi phát sinh ra nó.

3.2.1- Phòng, chống tội phạm từ chính nội bộ ngân hàng: 3.2.1.1- Công tác cán bộ:

Từ các nguyên nhân và điều kiện của phạm tội kinh tế nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng thì nguyên nhân quan trọng ở ngay công tác tổ chức và cán bộ. Vì rằng tất cả các sai phạm, tội phạm được hình thành trong hoạt động ngân hàng là do có sự tham gia thực hiện, sự tiếp tay của các cán bộ từ thủ quỹ, kế toán viên, thanh toán viên, cán bộ tín dụng, cán bộ thanh toán xuất nhập khẩu, điện toán viên vì vậy mỗi ngân hàng cần lựa chọn cho mình một đội ngũ cán bộ trung thực, liêm khiết.

a- Việc tuyển chọn cán bộ:


Tuyển chọn cán bộ có năng lực, phẩm chất, có trình độ, tổ chức chế độ thi tuyển công khai, minh bạch.

Thông báo tuyển chọn phải được đăng tải rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng với các quy định cụ thể để ngân hàng có cơ hội lựa chọn

được các cán bộ tài năng. Tránh tình trạng thi tuyển dưới hình thức gửi gắm con em, người quen, nên khi có hành vi sai phạm thường không được xử lý nghiêm do ngại va chạm. Khi tuyển dụng cần đề cao tính trung thực, chăm chỉ và tuân thủ đúng các bước quy trình nghiệp vụ là những yêu cầu hết sức cần thiết đối với mỗi nhân viên ngân hàng.

Chỉ lựa chọn những người đáp ứng đủ tiêu chuẩn như phải có bằng tốt nghiệp đúng yêu cầu ngành nghề cần tuyển để không lãng phí nguồn nhân lực.

Trên thực tế, các sai phạm do tuyển dụng nhân viên mới không nguy hại và cấp bách bằng những thiếu sót, khuyết điểm trong vấn đề đề bạt, đào tạo, giáo dục cán bộ. Chính do những khuyết điểm đó mà hàng năm con số về tha hoá về phẩm chất hoặc thậm chí trở thành kẻ phạm tội kinh tế chiếm tỷ lệ không nhỏ. Nhiều vụ việc đã chứng minh rằng không phải hầu hết các vụ vi phạm quy định quản lý tài chính ngân hàng đều xuất phát từ nguyên nhân khó khăn về kinh tế, vì mức thu nhập từ lương của các đối tượng này tương đối cao và ổn định so với mặt bằng chung, nhưng số tiền có được từ các sai phạm mới là nguồn thu nhập mong đợi và trở thành nguồn thu chính của đối tượng này.

Để khắc phục tình trạng trên, trong việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, cần đề bạt, bổ nhiệm cán bộ theo đúng tiêu chuẩn, chức danh đã được nhà nước quy

định, chống tư tưởng cục bộ, bản vị, cảm tình nể nang, hay thiên kiến trong việc đề bạt, bổ nhiệm, chấm dứt tình trạng bổ nhiệm, đề bạt cán bộ chỉ căn cứ vào lý lịch, xem nhẹ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ kinh tế.

Ngoài ra cần tiến hành rà soát lại và kiểm tra thật nghiêm ngặt việc cấp giấy phép cho phép thành lập các pháp nhân, nhất là các tổ chức sản xuất, kinh doanh, các tổ chức tín dụng, dịch vụ…Bảo đảm tính hợp pháp của các tổ chức này, cũng như bảo đảm những người đứng đầu các pháp nhân đó phải là có đủ điều kiện như quy định của pháp luật.

Trong công tác cán bộ phải sâu sát và chặt chẽ, tiếp cận hộ vay và có kế hoạch kiểm tra đôi chiếu trực tiếp khách hàng, hoán đổi cán bộ trên nhiều địa bàn.

b- Đào tạo cán bộ


Trong quá trình công tác để bắt kịp sự phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ tiếp tục được nâng cao.

Nhìn từ góc độ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thì đây là một lĩnh vực mới khá non trẻ, cán bộ được tiếp nhận ban đầu đều

được điều chuyển từ các ngành khác, nhiều người trong số họ chưa từng tiếp

xúc với các nghiệp vụ ngân hàng, vì vậy quá trình tiến hành và xử lý nghiệp vụ còn khá nhiều bỡ ngỡ, không thể tránh khỏi những sai sót do yếu kém về trình độ nên công tác đào tạo có vị trí hết sức quan trọng. Thực tế có những cán bộ làm nghiệp vụ thu nhận tiền gửi bằng vàng của khách nhưng bản thân lại không phân biệt được vàng thật giả dẫn đến bị khách hàng lừa đảo gửi vàng giả lĩnh vàng thật.

Cần phải gấp rút đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế cũ để giúp họ tự thay đổi, đồng thời bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm quản lý phù hợp đặc điểm nền kinh tế, vận động theo cơ chế của thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Cán bộ quản lý tầm vĩ mô phải được bồi dưỡng có hệ thống về quản lý kinh tế, có khả năng tổng hợp, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về khoa học quan lý. Cán bộ quản lý tầm vi mô và cán bộ nghiệp vụ cần được bồi dưỡng thêm về khả năng tiếp thị, nắm vững pháp luật, chính sách, hiểu sâu về nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực kinh tế đặc biệt là ngân hàng.

Hình thức đào tạo có thể mời giáo viên về hướng dẫn tại ngân hàng, tạo

điều kiện để các bộ theo học tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành có hỗ trợ học phí, cử cán bộ tham dự các chương trình đào tạo do ngành và các dự án đào tạo nguồn nhân lực tổ chức.

Ngoài đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cần chú ý đào tạo kiến thức chung về pháp luật, chủ yếu là các ngành luật có liên quan trực tiếp đến hoạt

động tài chính để các cán bộ hình thành phản xạ tuân theo pháp luật, lựa chọn hành vi không trái luật; qua việc giáo dục pháp luật có mục đích đã hình thành khả năng tự chủ bản thân ở những người có khuynh hướng vi phạm pháp luật.

Tuân thủ, thực hiện nguyên tắc pháp chế thì công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân, nhất là pháp luật về kinh tế là hết sức cần thiết. Đi đôi với việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phải đẩy mạnh công tác kiểm tra việc chấp hành, xử lý thật nghiêm minh những người vi phạm pháp luật, phạm tội về kinh tế.

Xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ thực sự, trong đó mọi tổ chức nhà nước, mọi đơn vị kinh tế, mọi người biết tự giác chấp hành pháp luật, biết đặt khẩu hiệu: Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật trong ý thức và hành động của mình, tạo ra được một tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với hành vi vi phạm pháp luật - Điều đó là cơ sở vững chắc để khắc phục tệ tham nhũng nói chung và các và các tội phạm về kinh tế nói riêng.

c- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng


Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, được điều chỉnh bởi một số lượng hợp lý đáng kể những chuẩn mực pháp luật. Trong cơ quan tổ chức quan các quan hệ đó được đặt dưới tổ chức công đoàn, đoàn và tổ chức đảng

để hướng các quan hệ theo hướng nhất định.


Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được cấp ủy và tổ chức đoàn, đảng thường xuyên phổ biến, nhắc nhở để cán bộ công nhân viên cùng nắm bắt

được các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước từ đó không đi ngược lại các lợi ích hợp pháp, luôn phục tùng lợi ích giai cấp.

Giáo dục tư tưởng để cán bộ ngân hàng hình thành trong mình ý thức

đạo đức nghề nghiệp, tạo phản xạ xa rời hành vi phạm tội.


Lấy các vụ việ về thẻ tín dụng gần đây làm ví dụ thì tại thời điểm này

điều mà tất cả các ngân hàng lo ngại tội phạm trong dịch vụ thẻ không chỉ là tình trạng các đối tượng tội phạm lắp đặt thiết bị ăn cắp dữ liệu khách hàng

đang ngày một gia tăng. Không muốn nói ra, song nỗi lo ẩn sâu trong tâm trí các nhà quản trị ngân hàng lúc này chính là rủi ro đến từ bên trong hệ thống của chính mình. Kiểu ăn cắp tài khoản kể trên đáng lo thật, nhưng nó là cái bên ngoài và được cảnh báo thường xuyên. Thường thì người ta hay đề phòng kẻ gian chứ chẳng ai ngờ tới những người thân ngay quanh mình. Rủi ro từ

đạo đức nghề nghiệp của một số nhân viên ngân hàng mới vô cùng nguy hiểm. Với cường độ làm liên tục của một tội phạm theo hình thức này, một ngày chúng có thể rút được khoảng 30 triệu VNĐ (rút bằng nhiều thẻ khác nhau) và

trung bình một năm chúng có thể kiếm được hàng tỷ đồng Việt Nam. Vì vậy công tác tư tưởng luôn được đề cao.

3.2.1.2- Cơ chế tiền lương


Nguyên nhân sâu xa và chủ yếu của các tội phạm trong ngân hàng xuất phát từ những khó khăn về vật chất, do phải chịu sự chi tiêu tằn tiện, tiết kiệm trong nhiều năm nên khi có cơ hội tiếp xúc với một lượng lớn tiền tệ đã không thoát khỏi cám dỗ, đã tìm mọi biện pháp, thủ đoạn hoặc tinh vi hoặc liều lĩnh, dưới hình thức hoặc tự bản thân, hoặc thông đồng với đồng nghiệp và khách hàng để chiếm đoạt tiền của ngân hàng để tiều dùng cá nhân.

Nhận thức rõ điều này, các NHTM từ quốc doanh đến cổ phần đều đưa ra mức lương kinh doanh V2, trên cơ sở doanh thu thực tế của từng chi nhánh bổ sung với mức lương cơ bản để trả cho người lao động.

Thêm vào đó nhiều ngân hàng đã đưa ra cơ chế tiền lương động lực để thúc đẩy những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong kinh doanh, có sáng tạo, sáng kiến vừa tăng doanh thu cho ngân hàng vừa tăng khả năng cạnh tranh giữa các cán bộ trong ngân hàng khiến hoạt động ngân hàng trở nên sôi

động hơn, hăng say làm việc và tìm kiếm nguồn vốn về cho ngân hàng. Thu nhập thực tế hợp pháp của các cá nhân năng động trong kinh doanh được tăng lên đáng kể khiến người lao động không muốn tham nhũng, không muốn cố tình hay sơ ý làm sai, không cố tình lợi dụng kẽ hở để rút tiền ngân hàng và khách hàng.

Công tác thi đua khen thưởng phải được các ngân hàng quan tâm đúng mức, đó là dịp để tôn vinh những cá nhân điển hình tiên tiến trong hoạt động ngân hàng, là nguồn khích lệ với người lao động, tạo niềm vui, niềm đam mê sự phấn đấu toàn tâm toàn ý với công việc.

3.2.1.3- Việc thực hiện quy trình nghiệp vụ.

Trong mọi trường hợp, cán bộ ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ trình tự, thủ tục tín dụng, nguyên tắc kết toán. Tăng cường công tác kiểm tra đảm bảo vốn vay. Nghiêm cấm một cán bộ tín dụng thu nợ, thu lãi một mình

Quy trình nghiệp vụ đề ra phải chính xác, chặt chẽ, rõ ràng dễ hiểu, dễ

áp dụng, tuân thủ đúng pháp luật, các văn bản của NHNN và của Hội sở chính nhưng vẫn phải đảm bảo tính mềm dẻo, linh hoạt của các giao dịch kinh tế.

a, Quy trình cho vay:


Trong các quy trình nghiệp vụ thì quy trình nghiệp vụ tín dụng và kế toán có ảnh hưởng lớn tới việc phát sinh các sai phạm, quy trình thì chặt chẽ có phân định các bước rõ ràng nhưng người thực hiện đã cố tình bỏ bước, cách bước, tạo ra những khoảng trống để kiếm lợi ích vật chất. Qua phân tích, cùng các bảng biểu cho thấy, các vi phạm gây thiệt hại nghiêm trọng cho các ngân hàng đều được thực hiện qua nghiệp vụ tín dụng. Vì vậy, phải thực hiện một nghiêm túc, khoa học và đồng bộ quy trình cho vay:

Quy trình cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một quy trình cho vay chặt chẽ và có hiệu quả sẽ là biện pháp hữu hiệu nhất để hạn chế rủi ro trong quá trình cấp tín dụng, giảm thiểu tối đa các hành vi sai phạm.

Quy trình cho vay là một quy trình kể từ khi khách hàng lập đơn xin vay đến lúc ngân hàng thu hồi hết nợ vay, bao gồm 5 giai đoạn:

Lập hồ sơ xin vay


Giai đoạn phân tích tín dụng Giai đoạn quyết định tín dụng

Giai đoạn giám sát khách hàng sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro Giai đoạn kiểm tra và thanh lý hợp đồng

Các giai đoạn trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đòi hỏi phải

được thực hiện một cách đầy đủ, sát sao ở từng giai đoạn, không được bỏ qua

một giai đoạn nào, tránh tình trạng cán bộ tín dụng sơ ý hoặc cố ý bỏ bớt giai

đoạn để kiếm lợi.


a- Công tác thẩm định:


Tuân theo văn bản về thẩm định của từng ngân hàng, ở từng thời điểm phát sinh nghiệp vụ.

Báo cáo tài chính phải có xác nhận của cơ quan kiểm toán, là báo cáo trong 02 năm hoạt động gần nhất.

Đối với việc thế chấp vay vốn bằng tài sản cần đăng ký giao dịch bảo

đảm. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, để xác định tính hiệu lực của hợp đồng thế chấp, bảo lãnh. Mặt khác, nếu thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm trước khi cho vay sẽ giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro, cũng như ngăn chặn nguy cơ không trung thực từ phía khách hàng.

Ngăn chặn việc khách hàng sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để thế chấp vay vốn NH như đã xảy ra tại NHCT CN 5 –TP Hồ Chí Minh. Nên trong mọi trường hợp chấp nhận cho vay thế chấp quyền sử dụng đất đều vì khi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, cán bộ đăng ký có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ đăng ký, ghi nội dung đăng ký vào Sổ địa chính và Sổ theo dõi biến động đất đai.

Qua giao dịch đảm bảo xác định được trật tự ưu tiên thanh toán khi phải xử lý tài sản; đồng thời phát hiện, ngăn ngừa được việc khách hàng lừa đảo dùng TSBĐ đã thế chấp, bảo lãnh tại TCTD khác để thế chấp, bảo lãnh vay vốn tại các ngân hàng khác.

Đối với các khoản vay có đảm bảo bằng tài sản đã nảy sinh nhiều sai phạm và gian lận, là do ngân hàng có toàn quyền quyết định: từ việc chứng nhận, thẩm định đến việc tiếp nhận sổ đỏ nhập kho đã khiến cán bộ ngân hàng lộng quyền và lợi dụng sở hở trong quản lý nội bộ để cố tình quay vòng sổ đỏ và định đoạt giá cao hơn giá trị thực.

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 07/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí